Từ năm 2024 đến nay, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành 7 nghị quyết chiến lược, gồm Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59- NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 70-NQ/ TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Để rõ hơn ý nghĩa và tác động của các nghị quyết này đối với sự phát triển của đất nước, phóng viên đã phỏng vấn TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
PV: Thưa ông, có ý kiến cho rằng, khi kết hợp lại 7 nghị quyết chiến lược này sẽ tạo một vòng tuần hoàn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp. Thể chế pháp luật minh bạch làm nền tảng cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn, đồng thời thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển kinh tế tư nhân. Hạ tầng năng lượng ổn định cùng nguồn nhân lực chất lượng cao tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất và nâng cao năng suất lao động… Quan điểm của ông như thế nào về vấn đề này?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Tôi cho rằng nhận định này hoàn toàn có cơ sở, bởi 7 nghị quyết của Bộ Chính trị không phải là những chính sách rời rạc, mà là một “vòng tuần hoàn phát triển” được thiết kế có chủ đích. Nghị quyết 66 tạo ra nền tảng thể chế - pháp luật minh bạch, dự đoán được, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư dài hạn. Trên nền tảng đó, Nghị quyết 57 thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, mở ra những không gian tăng trưởng mới. Nghị quyết 68 khơi thông sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân - lực lượng năng động nhất của nền kinh tế.
Song song, để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất với chi phí hợp lý và rủi ro thấp, Nghị quyết 70 bảo đảm an ninh năng lượng; Nghị quyết 71 cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao; và Nghị quyết 72 nâng cao sức khỏe nhân dân- nguồn vốn con người của quốc gia. Nghị quyết 59 về hội nhập giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường toàn cầu và chuỗi giá trị mới.
Khi kết nối lại, 7 nghị quyết tạo thành một hệ sinh thái phát triển khép kín: thể chế → đổi mới sáng tạo → doanh nghiệp → nguồn lực → thị trường. Đây chính là vòng tuần hoàn hỗ trợ doanh nghiệp vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới.
PV: Theo ông 7 nghị quyết này sẽ tạo ra cơ chế phát triển như thế nào cho Việt Nam và mang lại những tác động gì đối với doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: 7 nghị quyết chiến lược này đang tạo ra một cơ chế phát triển hoàn toàn mới cho Việt Nam: cơ chế phát triển dựa trên thể chế chất lượng cao, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và sức mạnh của con người. Nếu trước đây mô hình tăng trưởng của chúng ta thiên về vốn, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên, thì nay Bộ Chính trị định hướng chuyển mạnh sang mô hình dựa trên trí tuệ, sáng tạo và năng lực quản trị quốc gia hiện đại.
Về phía doanh nghiệp, tác động là rất trực tiếp. Nghị quyết 66 giúp môi trường pháp lý trở nên minh bạch và dự đoán được, giảm chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý. Nghị quyết 57 mở ra cơ hội ứng dụng công nghệ, dữ liệu và chuyển đổi số để tăng năng suất. Nghị quyết 68 thúc đẩy kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng, trong khi Nghị quyết 70 bảo đảm rằng doanh nghiệp có nền năng lượng ổn định với chi phí hợp lý. Nghị quyết 71 và 72 củng cố nguồn nhân lực và sức khỏe cộng đồng- những yếu tố quyết định cho năng suất lao động dài hạn. Nghị quyết 59 hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập sâu, tiếp cận các chuỗi giá trị toàn cầu.
Tổng hợp lại, đây là “hệ điều hành phát triển mới” tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tăng tốc, đổi mới và cạnh tranh ở tầm khu vực và thế giới.
PV: 7 nghị quyết chiến lược sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam bứt phá như thế nào trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu, thưa ông?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: 7 nghị quyết chiến lược sẽ tạo ra một “đường băng mới” để doanh nghiệp Việt Nam cất cánh trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập sâu rộng và cạnh tranh toàn cầu. Trước hết, Nghị quyết 66 giúp tháo gỡ những điểm nghẽn thể chế vốn làm tăng chi phí và giảm tốc độ của doanh nghiệp. Khi môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và dễ dự đoán, doanh nghiệp có thể tập trung vào đổi mới, mở rộng thị trường và phát triển sản phẩm.
Nghị quyết 57 đưa khoa học - công nghệ, dữ liệu và đổi mới sáng tạo trở thành nền tảng của năng suất mới. Điều này giúp doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng thích ứng với công nghệ số, AI, tự động hóa và các mô hình kinh doanh dựa trên dữ liệu.
Song song, Nghị quyết 59 mở rộng không gian hội nhập, giúp doanh nghiệp tiếp cận các chuỗi giá trị toàn cầu và tận dụng những hiệp định thương mại thế hệ mới. Nghị quyết 68 trao thêm động lực cho khu vực tư nhân - lực lượng tiên phong của cạnh tranh và sáng tạo. Nghị quyết 70, 71 và 72 cung cấp ba điều kiện nền tảng: năng lượng ổn định, nhân lực chất lượng cao và sức khỏe cộng đồng.
Khi những yếu tố này kết hợp, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ theo kịp cuộc chơi toàn cầu, mà hoàn toàn có thể bứt phá, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới của kỷ nguyên số.
PV: Theo ông, sự kết nối giữa thể chế, khoa học công nghệ, năng lượng, nhân lực, y tế và hội nhập quốc tế trong bảy nghị quyết chiến lược tạo nên vòng tuần hoàn phát triển quốc gia ra sao?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: 7 nghị quyết chiến lược tạo nên một vòng tuần hoàn phát triển quốc gia rất rõ ràng: thể chế → công nghệ → doanh nghiệp → nguồn lực → hội nhập → quay lại thúc đẩy thể chế. Đây là cách tiếp cận hệ thống, có tính kiến trúc, khác biệt với phương thức làm chính sách từng phần trước đây.
Nghị quyết thể hiện rõ quan điểm, chủ trương giảm chi phí, giảm rủi ro và tạo niềm tin cho doanh nghiệp
Thể chế minh bạch và ổn định từ Nghị quyết 66 là điểm khởi đầu: nó giảm chi phí, giảm rủi ro và tạo niềm tin cho doanh nghiệp. Trên nền đó, Nghị quyết 57 thổi vào nền kinh tế động lực đổi mới sáng tạo và công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng năng suất và mở ra các ngành nghề mới. Nghị quyết 68 khiến khu vực tư nhân trở thành động cơ tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Nghị quyết 70 bảo đảm năng lượng - máu của nền kinh tế; Nghị quyết 71 và 72 xây dựng nguồn nhân lực và sức khỏe cộng đồng - “vốn con người” không thể thay thế. Khi doanh nghiệp khỏe mạnh và cạnh tranh hơn, Nghị quyết 59 mở ra không gian hội nhập quốc tế để họ vươn ra thế giới.
Sự kết nối này tạo nên một vòng tuần hoàn khép kín: thể chế tốt sinh ra doanh nghiệp mạnh; doanh nghiệp mạnh đòi hỏi thể chế tốt hơn. Chính vòng tuần hoàn này sẽ đưa Việt Nam bước vào quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.
PV: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến đổi nhanh, 7 nghị quyết chiến lược có thể giúp Việt Nam tận dụng các cơ hội mới và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào, thưa ông?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động nhanh, 7 nghị quyết chiến lược tạo cho Việt Nam một bộ năng lực mới để không chỉ thích ứng mà còn tận dụng được những cơ hội lớn của chuỗi giá trị toàn cầu. Trước hết, Nghị quyết 66 giúp nâng chất lượng thể chế, tăng tính dự đoán, giảm rủi ro pháp lý - điều mà các tập đoàn đa quốc gia luôn coi là điều kiện tiên quyết khi lựa chọn điểm đến đầu tư.
Nghị quyết 57 đưa khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành trụ cột, giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các khâu có giá trị cao hơn như thiết kế, R&D, logistics số hoặc sản xuất thông minh. Nghị quyết 68 tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân bứt phá để trở thành lực lượng dẫn dắt trong các chuỗi cung ứng mới.
Nghị quyết 70 bảo đảm năng lượng ổn định, đáp ứng tiêu chuẩn xanh - yêu cầu mà các tập đoàn toàn cầu ngày càng coi trọng. Nghị quyết 71 và 72 cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và sức khỏe cộng đồng tốt, giúp Việt Nam trở thành điểm đến tin cậy cho các ngành công nghệ cao. Nghị quyết 59 mở rộng không gian hội nhập, giúp Việt Nam chủ động tham gia, thậm chí định hình “luật chơi” trong một số lĩnh vực.
Tổng hợp lại, 7 nghị quyết tạo ra năng lực để Việt Nam “leo thang giá trị”, tham gia sâu và có vị thế hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
PV: 7 nghị quyết chiến lược đóng vai trò gì trong việc hình thành động lực phát triển bền vững và nâng cao vị thế quốc gia của Việt Nam trong thời kỳ mới, thưa ông?
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: 7 nghị quyết chiến lược tạo nên một nền tảng phát triển bền vững theo đúng nghĩa: không chỉ tăng trưởng nhanh, mà tăng trưởng dựa trên chất lượng, khả năng chống chịu và sức mạnh nội sinh của quốc gia. Nghị quyết 66 nâng cấp thể chế - yếu tố quyết định sự minh bạch, hiệu lực và khả năng thực thi chính sách. Thể chế tốt không chỉ giảm chi phí mà còn tạo ra niềm tin xã hội - một dạng “vốn phát triển” rất quan trọng trong thời đại bất định.
Nghị quyết 57 thúc đẩy đổi mới sáng tạo, công nghệ và chuyển đổi số, giúp Việt Nam xây dựng nền kinh tế tri thức và giảm phụ thuộc vào mô hình tăng trưởng truyền thống. Nghị quyết 68 khơi thông động lực của khu vực tư nhân - trung tâm của cạnh tranh và của sức sống nền kinh tế.
Nghị quyết 70, 71 và 72 củng cố ba yếu tố nền tảng của phát triển bền vững: năng lượng ổn định, nguồn nhân lực chất lượng cao và sức khỏe cộng đồng. Đây là những điều kiện không thể thay thế cho một quốc gia muốn giữ nhịp tăng trưởng dài hạn.
Nghị quyết 59 về hội nhập mở rộng không gian phát triển, tăng cường vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị và trên bàn cờ địa chính trị.
Nhờ sự kết hợp của 7 nghị quyết, Việt Nam có cơ hội hình thành một động lực phát triển bền vững và nâng tầm vị thế quốc gia trong kỷ nguyên cạnh tranh mới.
PV: Xin cảm ơn ông!