Cuộc đời và sự nghiệp hát của Út Trà Ôn đẹp như truyền thuyết, trở thành hình ảnh tiêu biểu cho ý chí vươn lên của một tài năng ẩn sâu ruộng đồng bước lên đỉnh cao nghệ thuật cổ truyền Nam bộ thế kỷ 20.
Giọng ca thiên phú
NSND Út Trà Ôn tâm sự những gì ông có được là nhờ trời ban cho, nhờ gia đình và quê hương sinh thành, nhờ cả niềm đam mê khao khát được ca hát vô bờ của mình. Ông tên thật Nguyễn Thành Út, sinh năm Kỷ Mùi 1919, là con trai út, thứ mười trong gia đình nông dân khá giả ở làng Đông Hậu, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long), nên được gọi là Mười Út. Khoảng năm 1937, Mười Út cùng bạn bè rủ nhau lên Sài Gòn chơi và vào nhà hàng Đức Thành Hưng ca hát với nhau. Biết được hãng rượu Dubonnet thường tổ chức tuyển chọn giọng ca hay ở rạp Moderne, Mười Út vào thi thử và trúng tuyển. Vì chưa được phép của gia đình nên Mười Út chỉ hát được một thời gian ngắn rồi trở về Trà Ôn.
Một duyên may khác đã đến. Gánh hát Tiến Hóa của ông bầu nổi tiếng Trúc Viên, tức Trương Gia Kỳ Sanh, từ Sa Đéc sang Trà Ôn biểu diễn, Mười Út tìm đến xin đầu quân. Thấy chàng trai nông dân quê mùa thấp lùn đen đủi, ông bầu sợ “tướng tá” này không ăn khách nên từ chối. Hôm sau, Mười Út lại đến gánh hát chơi và ca thử vài bản cho nghệ sĩ trong đoàn đờn. Đang nằm trên võng, ông bầu Trúc Viên nghe Mười Út ca hay quá, đứng dậy đi tới nói, đại ý: Tôi lầm rồi. Chút nữa bỏ lỡ giọng ca trong đoàn mình không ai qua được!
Đó cũng là bước ngoặt đưa Mười Út chính thức đi vào con đường ca hát chuyên nghiệp. Cũng như nhiều nghệ sĩ khác khi đi hát cần có nghệ danh, ông nghĩ mình tên Út, quê Trà Ôn, cứ đặt Út Trà Ôn, nghe vừa giản dị vừa có tình với quê hương. Từ đó, nghệ danh Út Trà Ôn xuất hiện và dần được nhiều người biết đến. Hát cho gánh Tiến Hóa đến năm 1945, Út Trà Ôn chuyển sang hát cho đoàn Mộng Vân của soạn giả tài danh Mộng Vân. Ông được giao đóng kép chính trong các vở Ba ngọn đèn xanh, Triều Tiên vong quốc sử, Đêm tơ vương… Con đường ca hát của ông lên như diều gặp gió. Năm 1960, trong cuộc trưng cầu ý kiến khán giả trên nhật báo Tiếng Dội để chọn giọng ca hay nhất, Út Trà Ôn đã được tôn vinh Đệ nhất danh ca miền Nam.
Không chỉ dân miệt vườn Nam bộ mà cả dân duyên hải miền Trung quê tôi cũng rất mê vọng cổ, cải lương cho dù nơi đây có truyền thống hát bội. Út Trà Ôn là một trong những giọng ca thần tượng của tuổi thơ chúng tôi ở ruộng đồng. Đến khi đi làm báo, Út Trà Ôn chính là nghệ sĩ cải lương đầu tiên tôi thực hiện cuộc phỏng vấn về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Bấy giờ, dù tuổi cao không còn đứng trên sân khấu nữa nhưng nghệ sĩ Út Trà Ôn vẫn đi hát từ thiện ở các lễ hội đình chùa. Người hâm mộ chưa “buông tha” giọng hát của ông, vẫn đưa xe đến mời ông rong ruổi khắp nơi.
Nghệ sĩ đa năng, đa tình
Nghệ sĩ đa năng, đa tình
Dù đã từng đóng hàng trăm vai cải lương nhưng Ông Cò quận 9 trong Tuyệt tình ca vẫn là vai diễn Út Trà Ôn tâm đắc nhất và gây ấn tượng nhất đối với khán giả. Đây là vai diễn của 2 soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng viết riêng cho Út Trà Ôn. Trường hợp này cũng giống như “vua soạn lời vọng cổ” Viễn Châu viết riêng Tình anh bán chiếu và hàng trăm bản vọng cổ khác cho Út Trà Ôn hát. Sự ăn ý trong sáng tạo và biểu diễn ấy thật ấn tượng.
Út Trà Ôn là nghệ sĩ đa năng và không kén chọn vai. Ông tâm sự: “Loại vai nào tôi cũng diễn, miễn là nhân vật đó có kịch tính, có số phận éo le, gay cấn, từ vai mùi tới vai độc, vai lão, vai hề. Trong tuồng cải lương San hậu, tôi làm hề, với vai Út Cà Lăm khá thành công. Còn tuồng Lãnh Cầu Bông tôi thủ vai Hùng Đôla trùm du đãng. Tôi có cô người yêu, sau khi được mời đi xem tuồng này, ghét nhân vật độc ác, nên cũng… ghét và “xù” tôi luôn”.
Út Trà Ôn là người có công lớn đưa bản vọng cổ phát triển đỉnh cao thành lối ca hoàn chỉnh cho tới ngày nay. Vọng cổ là nền tảng rất quan trọng cho cải lương. Nếu nghệ sĩ Sáu Lầu là người khai mở với bản Dạ cổ hoài lang nhịp 4, nghệ sĩ Năm Nghĩa là người đầu tiên có công phổ biến rộng rãi bản vọng cổ nhịp 8 với Vì tiền lỗi đạo, thì nghệ sĩ Út Trà Ôn là người đưa bản vọng cổ lên đỉnh cao với bản Tôn Tẩn giả điên do vị Yết Ma Hòa thượng sáng tác riêng cho ông hát, với nhịp 16, tức tiếp tục tăng gấp đôi so với nhịp 8 bản của Năm Nghĩa. Ấy là từ năm 1946, mỗi câu của bản vọng cổ dài thêm bằng nhịp 16, như 6 câu trong bản Tôn Tẩn giả điên.
Thành công từ vọng cổ đã mang lại cho Út Trà Ô tiền tài, danh vọng cùng những mối tình nghệ sĩ lãng mạn. Chính vì thế, “Hoàng đế vọng cổ” Út Trà Ôn còn được biết đến như một nghệ sĩ rất đa tình. Ông không chỉ được những người đẹp trong giới sân khấu đem lòng yêu thương, mà nhiều quý cô quý bà xinh xắn, giàu có ngoài đời cũng chết mê chết mệt vì ông. Trong đó, có mối quan hệ nhiều đồn đoán giữa Út Trà Ôn và Ngọc Bích. Xuất thân từ một tài năng nhí nhà nghèo tận miền Tây, Ngọc Bích được vợ chồng Út Trà Ôn nhận làm con nuôi, nâng đỡ thành nữ nghệ sĩ tài danh, đoạt giải Thanh Tâm danh giá năm 1967. Út Trà Ôn - Ngọc Bích trở thành cặp đôi diễn xuất ăn ý nổi tiếng thập niên 1960-70 trên sân khấu cải lương miền Nam, dù ông lớn hơn cô tới 28 tuổi.
Khi đầu quân ở đoàn tuồng nào, diễn vở nào, Út Trà Ôn cũng chỉ đề nghị diễn chung với Ngọc Bích và ông cũng không cho cô đóng cặp với bất cứ kép nào khác. Năm 1968, khi đoàn Thanh Minh Thanh Nga sang thủ đô Paris, Pháp biểu diễn, Út Trà Ôn và Ngọc Bích cũng cùng đi và buộc bà Bầu Thơ phải sắp xếp cho họ ở chung phòng. Trong khi đó, do giá cả đắt đỏ, phần còn lại của đoàn chia hai, toàn bộ diễn viên nam ở chung một phòng, diễn viên nữ một phòng. Đó cũng là nguyên do những lời đồn quan hệ tình ái giữa cha nuôi và con nuôi, cho dù hai người phủ nhận điều này…
May mắn cho Út Trà Ôn là ông có người vợ hiểu biết, thần tượng chồng, không bao giờ biểu hiện sự ghen tuông, cố nén nỗi đau thường tình của người đàn bà vào lòng để giữ gìn hạnh phúc cho gia đình, cũng như bảo vệ uy tín sự nghiệp của chồng. Cũng vì lẽ đó, dù rất trăng hoa nhưng Út Trà Ôn luôn tôn trọng vợ và chỉ có duy nhất một dòng con với bà, gồm ba trai ba gái, trong đó có cô gái út là ca sĩ Bích Phượng nối nghiệp cha mà ông rất tự hào.