Hợp tác tiếp cận vốn rẻ

Các NHTM đang triển khai hàng loạt gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhưng doanh nghiệp (DN) có nhu cầu vẫn rất khó tiếp cận. Trước vấn đề NHTM thừa tiền nhưng thiếu khách hàng đủ điều kiện vay và DN cần vốn nhưng không vay được, một số ý kiến cho rằng NH và DN cần phải hợp tác để cùng tháo gỡ khó khăn đôi bên.

Các NHTM đang triển khai hàng loạt gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhưng doanh nghiệp (DN) có nhu cầu vẫn rất khó tiếp cận. Trước vấn đề NHTM thừa tiền nhưng thiếu khách hàng đủ điều kiện vay và DN cần vốn nhưng không vay được, một số ý kiến cho rằng NH và DN cần phải hợp tác để cùng tháo gỡ khó khăn đôi bên.

Theo ông Nguyễn Trung Kiên, Trưởng phòng nghiên cứu tổng hợp NHNN chi nhánh TPCHM, từ đầu năm đến nay mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, đặc biệt với diễn biến lạm phát.

Hiện các NHTM nhà nước, NHTM lớn đã giảm lãi suất xuống dưới mức trần huy động, trong khi NHTM nhỏ dù gặp khó khăn huy động vốn nhưng lãi suất cũng ở sát mức trần. Đồng thời, lãi suất cho vay VNĐ giảm 3-4%/năm, bằng giai đoạn 2005-2006 và thấp hơn năm 2007. Theo đó, lãi suất cho vay của các NHTM nhà nước đối với 5 lĩnh vực ưu tiên 8-10%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh 9-11%/năm đối với ngắn hạn, 11,5-12,5%/năm với vay trung và dài hạn.

Một số DN thuộc lĩnh vực ưu tiên có tình hình tài chính minh bạch, có phương án sản xuất hiệu quả có thể tiếp cận vốn vay lãi suất 7-8%/năm. Nhiều NHTM cũng triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi lãi suất hỗ trợ DN, nhất là DNNVV, như Vietcombank dành 20.000 tỷ đồng cho vay với lãi suất 8,5%/năm, thời hạn 8 tháng cho khách hàng cũ và mới. VietinBank triển khai nhiều gói tín dụng với hạn mức 80.000 tỷ đồng lãi suất tối thiểu 7%/năm…

Hiện các gói tín dụng lãi suất thấp rất nhiều, DN không cần phải chú trọng đến việc làm sao tìm được nguồn vốn lãi suất thấp, mà vấn đề cần quan tâm là tìm nguồn vốn đúng với nhu cầu, lĩnh vực của mình và minh bạch báo cáo tài chính, việc tiếp cận vốn sẽ dễ dàng hơn.

Ông Đặng Bảo Khánh, Tổng giám đốc SeABank, cho biết các DN đủ điều kiện vay đều không muốn vay vốn vì hàng tồn kho nhiều chưa xử lý được, không mở rộng được thị trường nên chủ yếu hoạt động trên vốn tự có.

Ngược lại, có nhu cầu vay là những DN đã có dư nợ hay nợ quá hạn nhưng hầu như mất khả năng thanh toán. Những trường hợp này khó tiếp cận vốn thêm, bởi trước đây khi DN vay vốn lãi suất cao, do nợ đọng nên phát sinh lãi phạt, nay lãi suất có giảm nhưng DN cũng không đủ khả năng trả nợ.

Như vậy, tài sản đảm bảo của những DN này không đủ cho NH thu gốc lẫn lãi đã nợ nên NH không cho vay thêm. Ngoài ra, một số trường hợp DN tuy có khả năng tài chính nhưng lại đầu tư dàn trải dẫn đến tồn kho cao, hàng hóa không luân chuyển được, dẫn đến thua lỗ, không chứng minh được khả năng trả nợ… cũng khó được xét duyệt vay vốn.

Để khơi thông nguồn vốn lãi suất thấp cho DN, đặc biệt DNNVV, ông Khánh cho rằng tạo đầu ra cho nguồn vốn huy động, giải pháp tốt nhất là NH và DN có nợ quá hạn hợp tác giải quyết, nếu còn có thể xử lý được nên mạnh dạn tái cơ cấu theo Quyết định 780/QĐ-NHNN.

Chẳng hạn, trước kia khoản vay thời hạn 1 năm, NH sẽ kéo dãn cho vay đến 3 năm, lãi suất giảm xuống để DN có thể trả gốc lẫn lãi đúng hẹn, từ đó có thể lành mạnh hóa khoản vay so với việc để nợ quá hạn kéo dài. Đối với những khoản nợ không thể tái cơ cấu được nên lựa chọn giải pháp dứt khoát để xử lý, như thu hồi khoản vay đó càng sớm càng tốt.

Bởi lẽ, khi DN nợ quá hạn tại một NH cũng không thể vay ở bất cứ tổ chức tín dụng nào khác, đồng thời làm thiệt hại cho cả đôi bên, tạo “cục máu đông” cho nền kinh tế, khiến cả DN lẫn NH loay hoay trong đống nợ này nhưng không giải quyết được gì. Vì thế, kết hợp với NH, DN có thể mở một công ty mới, một ý tưởng kinh doanh mới, tạo hồ sơ vay nợ sạch, từ đó có thể tiếp cận được nguồn vốn lãi suất thấp.

Hiện nhiều ý kiến thắc mắc vì sao NH cho DNNN vay tín chấp với mức lãi suất 6%/năm nhưng lại không cho DNNVV vay tương tự. Nguyên nhân do DNNN ngoài quan hệ tín dụng còn sử dụng nhiều dịch vụ khác của NH để giao dịch nên NH kiểm soát được dòng tiền, lời lỗ của DN.

Một NH hoạt động cần nhiều chi phí, phải trích lập dự phòng chung, dự phòng riêng, đối mặt với tỷ lệ nợ quá hạn và các chi phí hoạt động khác, nên khi DN sử dụng dịch vụ, NH mới có thể ổn định hoạt động của mình và yên tâm khi cho DN vay vốn.

Các tin khác