VNĐ tăng giá khoảng 1,47% so với so với USD
Nhận định về tình hình tỷ giá Việt Nam năm 2021, ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối kinh doanh tiền tệ, thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán - HSBC Việt Nam, cho biết sau kỳ điều chỉnh hạ giá mua vào của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xuống mức 22.750 đồng/USD, hiệu lực từ ngày 11-8, tỷ giá USD/VND tiếp tục theo xu hướng giảm cho đến nay.
Tại thời điểm đầu tháng 9, cặp tỷ giá USD/VND giao dịch quanh mốc 22.760-22.770 đồng/USD, là mức thấp nhất trong vài năm trở lại đây. Tính riêng từ đầu năm 2021, tiền đồng đã tăng khoảng 1,47% so với đồng bạc xanh.
Ông Khoa nhận định, VNĐ là một trong số ít các loại tiền tệ trong khu vực đã tăng giá so với USD từ đầu năm đến nay. Xu hướng này chủ yếu được thúc đẩy bởi sự thay đổi chính sách điều hành tỷ giá của NHNN.
Cụ thể ngày 20-7, NHNN đã thông báo thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, phù hợp với trình độ phát triển của thị trường ngoại tệ và các yếu tố kinh tế, đảm bảo hoạt động ổn định, thông suốt của thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó giải toả các quan ngại của Bộ Tài chính Mỹ.
“Tính từ tháng 6, NHNN đã giảm giá mua vào tổng cộng 375 đồng xuống mốc 22.750 đồng/USD. Và mức giảm tổng cộng 450 đồng nếu tính từ tháng 11-2019, sau khi trải qua 6 lần điều chỉnh. Xu hướng này cũng được cho là đi ngược với những năm trước đó, khi VNĐ thường xuyên trượt giá so với USD. Mức độ cắt giảm cho đến nay cũng được đánh giá là lớn hơn và sớm hơn dự kiến, tiếp tục thể hiện chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, chủ động của NHNN”, ông Ngô Đăng Khoa nhấn mạnh.
Dự báo của nhóm nghiên cứu HSBC trong năm tới, tỷ giá USD/VND sẽ đảo chiều về mức 23.000 đồng/USD. Dự báo này đặt trong bối cảnh tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chảy vào chậm lại.
Theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, VNĐ có thể đứng trước áp lực đối diện với một đồng bạc xanh mạnh hơn trên thị trường quốc tệ, và đồng Nhân dân tệ suy yếu hơn.
Trong năm 2021, VNĐ đã vượt qua nhiều yếu tố bất lợi, như những lo ngại về ảnh hưởng của dịch Covid-19 kéo dài khiến đà tăng trưởng chậm lại, cán cân thương mại thâm hụt, và sự khác biệt chính sách tiền tệ với Fed. Tuy nhiên, những vấn đề này có thể trở nên nổi cộm hơn vào năm sau.
Cụ thể, thặng dư tài khoản vãng lai của Việt Nam thu hẹp xuống còn 0,4 tỷ USD trong quý I, từ mức trung bình hơn 3 tỷ USD mỗi quý trong giai đoạn 2019-2020, và nhiều khả năng thâm hụt nhẹ trong quý II.
Thặng dư thương mại, vốn đã giảm xuống 5,9 tỷ USD trong quý I, từ mức trung bình 6,5 tỷ USD trong giai đoạn 2019-2020, cũng bộc lộ thiếu hụt của tài khoản vãng lai, khi tiếp tục thiếu các khoản thu từ khách du lịch. Thâm hụt dịch vụ và dòng thu nhập chính lên tới 8,2 tỷ USD, trong khi dòng tiền liên quan đến kiều hối đạt 2,6 tỷ USD.
Sự suy giảm trong tài khoản vãng lai có thể sẽ tăng tốc trong tương lai, khi cán cân thương mại thâm hụt 1,3 tỷ USD mỗi tháng kể từ tháng 4-2021. Trong khi đó, thâm hụt dịch vụ lớn hơn là hậu quả trực tiếp của việc mất doanh thu du lịch.
"Trước khi Covid-19 bùng nổ, nguồn thu từ du lịch ròng (5-6 tỷ USD) là quan trọng để bù đắp thâm hụt do giao thông vận tải (4-5 tỷ USD) và thâm hụt liên quan đến dịch vụ khác (3-4 tỷ USD). Các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ trước đến nay là nguồn chính của dòng vốn ngoại hối (5,9% GDP). Tuy nhiên, dòng tiền này gần đây đang chậm lại", ông Khoa nhận định.
Dữ liệu hàng tháng cho thấy các khoản đầu tư đã thực hiện sụt giảm từ mức trung bình là 1,8 tỷ USD vào tháng 4-2020 đến tháng 12-2020, xuống còn 1,6 tỷ USD trong giai đoạn tháng 4 đến tháng 7-2021.
Đối với dòng vốn danh mục đầu tư, với việc hạ dự báo tăng trưởng, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng trị giá 1,5 tỷ USD trong giai đoạn quý I-2020 đến quý I-2021, với rủi ro là việc rút các dòng vốn danh mục đầu tư này có thể gia tăng trong tương lai.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phòng vệ rủi ro tỷ giá
Ông Ngô Đăng Khoa cho rằng, trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến hết sức phức tạp, nền kinh tế đứng trước nhiều thách thức trong quá trình phục hồi, doanh nghiệp (DN) sẽ gặp khó khăn để xây dựng kịch bản hoạt động và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Thứ hai, khó khăn để duy trì nhân công, lực lượng lao động trong và sau dịch. Người lao động chịu ảnh hưởng nặng nề trong suốt thời gian dịch bệnh, và sẽ gặp nhiều khó khăn khi quay trở lại làm việc khi dịch bệnh được kiểm soát.
Tương tự như vấn đề mà nhiều quốc gia khác đã gặp phải, DN sẽ đứng trước nhiều thách thức trong việc thu hút, cũng như duy trì các nguồn lợi cho người lao động. Nếu các vấn đề này không được giải quyết, năng lực sản xuất khó có thể quay trở lại giai đoạn trước dịch.
Thứ ba, áp lực lạm phát leo thang, đặc biệt ở giá cả đầu vào, cũng đặt ra nhiều thách thức. Cùng với đó, chi phí vận hành tăng, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, vô hình chung tạo nhiều áp lực lên giá cả cung ứng nguyên vật liệu, tạo ra nhiều thách thức đặc biệt với các DN trong các lĩnh vực có tính cạnh tranh cao và khó tăng giá cả đầu ra.
Đại diện HSBC khuyến cáo các DN cần phải chủ động xây dựng các kịch bản đa dạng với từng tình huống. Đặc biệt đối với các DN xuất nhập khẩu.
Cụ thể, cần đặc biệt chú trọng vấn đề phòng vệ rủi ro, trong đó có rủi ro về dòng tiền, rủi ro về lãi suất và tỷ giá, thông qua các sản phẩm phòng vệ rủi ro. Điều này sẽ giúp DN nắm thế chủ động trong việc dự phòng và ổn định tính thanh khoản, đảm bảo hoạt động thông suốt.