CHỢ TẾT ĐÔNG BIÊN
Tôi không nghĩ ngôi chợ truyền thống này gắn với quá trình xây dựng và phát triển hàng trăm năm ở vùng đất Tứ tổ khai sáng, nhưng nay lại lèo tèo, xác xơ đến thế. Cuối đông, gió heo may lạnh ngọt.
Con đường dẫn vào chợ rợp bóng bàng xưa không còn, thay vào đó là những gian hàng xổm bán cây giống. Cửa hàng bách hóa tổng hợp gắn với “truyền thuyết áo xanh sĩ lâm; quần phíp” không còn. Cả cổng gạch mang tên “chợ Đông Biên” cũng không còn nữa…
Gửi xe máy xong vào chợ, tôi tìm hàng bánh đúc, bánh nếp nhân đậu xanh, bánh đa vừng… vốn ưa thích mỗi lần mẹ đi chợ về cách đây hơn 50 năm. Một cô gái bán hành tỏi ngay đầu chợ nhiệt tình chỉ dẫn. Chen qua các gian hàng với mùi đặc trưng của chợ quê, tôi tìm được các món ưa thích. Nào bánh đúc nhân lạc, bánh nếp nhân đậu xanh, bánh đa vừng gạo quê và cả những trái cà xanh giòn nữa.
Dạo một vòng trước khi ra bãi lấy xe ra về, tôi cứ miên man suy nghĩ về “di sản vật thể” ở quê đã gần như “mất tích” thấy nhói lòng. Vẫn biết thời công nghiệp hóa hiện đại hóa, phải ưu tiên phát triển các trung tâm thương mại với các chợ hiện đại, các siêu thị “hàng hóa”, nhưng với vùng quê giàu bản sắc truyền thống văn hóa khác biệt này, cũng nên chú ý tôn tạo và phát triển nó.
Ở các thành phố lớn như Hà Nội có chợ Đồng Xuân, Huế có chợ Đông Ba, TPHCM có chợ Bến Thành, Đồng bằng sông Cửu Long có chợ Nổi… nhưng các nhà chức trách vẫn chú trọng đầu tư giữ lại các chợ xưa để phát triển. Bởi giữ các địa chỉ này không chỉ giữ lại truyền thống đáp ứng nhu cầu giao thương của cư dân, mà còn là điểm đến khám phá, trải nghiệm của du khách trong và ngoài nước.
Vẫn biết từ chủ trương đến biện pháp là cả quá trình, nhưng kinh tế thị trường cho phép thu hút nguồn đầu tư đa dạng. Tôi định bụng gặp Bí thư huyện ủy Trần Hải và Chủ tịch huyện Thế Anh để góp ý chuyện này. Đó là cần có một dự án khoa học thiết kế và vận hành chợ Đông Biên, đảm bảo “dĩ bất biến và ứng vạn biến”, kết hợp hiện đại và truyền thống.
Theo đó cần có chính sách đầu tư, đảm bảo lợi ích chính đáng của nhà đầu tư và nhu cầu thiết yếu của người dân. Đó là bài toán dễ chẳng dễ, nhưng vẫn trong tầm tay của cấp ủy, chính quyền huyện văn hóa anh hùng, mảnh đất thiêng nơi vùng chân sóng này.
Dắt xe khỏi bãi, tôi nổ máy rà rà ngược lên phía Đông chợ tìm tiệm ảnh Nam Hải, hiệu sách Nhân Dân và lò bánh mì mang tên Hợi… Tuổi thơ tôi, nơi đây đã neo giữ biết bao kỷ niệm. Khoảng đầu năm 60 của thế kỷ trước, vào ngày 29 Tết hàng năm tôi đều theo bố mẹ, đôi khi tự đi chợ Đông Biên phiên cuối năm.
Tranh Đông Hồ, sách là món hàng tôi ưa thích nhất. Hơn mười tuổi tôi đã mê tiểu thuyết, thơ của các nhà văn nhà thơ nổi tiếng của Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ… cũng như các nhà văn kinh điển, gạo cội của Việt Nam.
Tôi hồi tưởng trong ký ức, lúc tan chợ về, chờ đến chiều ngồi trên lưng trâu, tôi như bị các cuốn sách ấy thôi miên. Không biết có phải do con chữ trong những cuốn sách không, để rồi sau này xuất thân từ gia đình thuần nông, tôi trở thành “thợ cày trên cánh đồng chữ nghĩa”.
Và hiện nay vào tuổi xưa nay hiếm, tôi đang chạy đua với thời gian hoàn thành các cuốn sách, cán đích số 20 của mình nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân; 50 năm Ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; và 55 năm rời mái trường cấp 3 Hải Hậu thân yêu để vượt Trường Sơn vào Nam bộ chiến đấu.
Qua cửa hàng ảnh Nam Hải và lò bánh mì ông Hợi, dấu tích xưa nay chẳng còn. Nhưng tôi vẫn nghe đâu đây mùi đặc trưng của bánh mì nóng giữa mùa đông giá lạnh, và cái bụng đói cồn cào tuổi ấu thơ. Kỳ vọng chợ Đông Biên chắc chắn sẽ đổi mới. Ký ức xưa chắc chắn sẽ còn mãi!
VƯỜN CÂY CỦA MẸ
Mỗi lần về quê, tôi có thú vui đạp xe tung tẩy, nơi in dấu kỷ niệm tuổi thơ. Sáng nay từ nhà đạp gần chục cây số xuống bến phà Ninh Cường, nối đôi bờ Ninh Cơ giữa đất Trực Ninh và Nghĩa Hưng. Trên đường về, cũng theo thói quen, tôi ghé chợ. Chợ xổm, chợ hàng như bão hòa với thời gian, đã hơn nửa thế kỷ từ ngày gánh bưởi cho mẹ đi chợ Đình, nay vẫn thế.
Đầu tiên, tôi lấy điện thoại chụp hình. Về nhà so lại vẫn như những tấm hình trước đây. Chỉ có điều hàng hóa dồi dào hơn, và các bà, các chị đi chợ mặc tươm tất, nét mặt vui vẻ hơn.
Kế đến, biết mua về mẹ la, nhưng theo thói quen tôi vẫn ghé hàng bún chả dưới gốc cây đa cổ mang tên Obama mua 2 phần. Nghĩ bụng phần biếu mẹ, phần kia cho 3 đứa cháu ngoại của các em từ TPHCM ra chơi với Cụ.
Khi mẹ bước vào tuổi U100, biết thời gian chỉ tính tuần, tính tháng, anh em bảo nhau, sắp xếp lúc nào cũng có các con bên cạnh mẹ. Đặc biệt lễ Tết thì cả nhà kéo về. Quả thực đó là liều thuốc tiên khiến mẹ khỏe, vui và luôn miệng kể chuyện xưa, chủ yếu “ôn nghèo kể khổ” và ơn nghĩa những người đã cưu mang, giúp đỡ gia đình mình.
Vẫn theo thói quen hơn 20 năm nay, hàng ngày mẹ vẫn ngồi bậu cửa ngóng ra đường xem có chú bộ đội nào đó về phép, ba lô xanh, vành mũ cũng xanh. “Chúng con về cả rồi mẹ còn ngóng ai nữa”. “Em con chứ ai, thằng cu Cay đó. Đêm qua mẹ lại mơ nó khoác ba lô đứng ở cổng. Cười, hàm răng trắng lóa mà ánh mắt long lanh…”.
Chưa đợt nghỉ nào về quê có nhiều trái cây như đợt này. Nào bưởi, hồng, chuối, mít, khế… đặc biệt nhiều nhất là na. Na, loại trái cây mà tôi yêu thích từ nhỏ, và cũng gắn với kỷ niệm đau buồn của người lính trận. Sau chống Mỹ, người lính trận ấy trở về và làm “nghĩa vụ” như bao chàng trai khác: lấy vợ. Vợ anh là một cô gái trẻ vừa ra trường.
Cưới xong ở bên vợ chưa đầy một tuần thì chàng trở lại mặt trận. Chiến dịch giải phóng cứu Nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng, chàng trai ấy là phóng viên chiến trường bám sát bước chân bộ đội. Và rồi Tết năm ấy dưới tượng thần Apsara ở Angkor, chàng nghe tin vợ mất. Người con gái mang tên một loại trái cây chàng ưa thích đã mãi mãi ra đi khi tuổi còn rất trẻ…
Chợ quê và vườn trái cây của mẹ là nguồn cảm hứng vô tận để chàng phóng viên mặt trận một thời sáng tạo. Chàng viết trường ca, thơ, truyện ngắn, bút ký, tản văn về quê hương với những kỷ niệm vui buồn.
Vào tuổi “ xưa nay hiếm”, chàng phóng viên mặt trận ấy vẫn như xưa, mê say khám phá quê hương, chợ quê và vườn trái cây của mẹ.
CHỊ THƠ
Thả bộ dọc bờ sông, tôi như người mộng du. Đường hoa và tiếng loa phóng thanh, tiếng trống chầu… trộn lẫn vào nhau. Từ khi công cuộc đổi mới khởi sắc, làng quê tôi như lột xác. Tôi gặp chị Thơ ngay cầu đá đầu làng.
Cách đây nửa thế kỷ, chị Thơ đã tiễn tôi lên đường đánh giặc nơi bến sông này. Cậu về bao giờ? Về giỗ Bố rồi giỗ Tổ hả. Dạ, em mới về. Chị có khỏe không? Nói khỏe cũng được mà không cũng được cậu ạ. Chị đã hơn bảy chục rồi còn gì...
Tôi giật mình. Chị đã hơn 70 rồi sao? Cũng phải thôi, là lớp đàn em, tôi cũng đã sắp đến “tuổi xưa nay hiếm”. Tôi bước vào căn nhà nằm sâu trong ngõ nhỏ, nhìn ra cánh đồng. Phải nói nông thôn mới đã làm mọi thứ mới lạ.
Ngõ nhỏ lầy lội khi xưa, nay được đổ bê tông khang trang, rộng rãi. Nhà nào cũng tường xây, ngói mới. Trang bị, tiện nghi đầy đủ, không kém gì thành phố. Mọi thứ đều mới mẻ, chỉ có chị Thơ thì vẫn thế.
Tôi nhớ lại người con gái đội trưởng đội sản xuất của hợp tác xã nông nghiệp cách đây hơn 50 năm về trước. Ngày ấy chị Thơ mới hơn hai mươi, đã được giao làm đội trưởng sản xuất, quản lý vài trăm hộ gia đình.
Dáng người thon, tóc dài, da trắng, vồng ngực tràn dâng; đặc biệt đôi mắt sâu đầy biểu cảm, chị Thơ rực sáng như bông hoa đồng nội. Tính tình vui vẻ, nói năng dịu dàng, thuyết phục, nhưng không phải không có lúc chị “nổi đóa”.
Tôi nhớ lần ấy, mùa vụ đang hối hả, đi họp về, gần trưa chị Thơ vẫn thấy mấy con trâu cột dưới gốc tre. Hỏi ra mới biết, trời mưa các thợ cày tự tiện nghỉ việc, rủ nhau đụng thịt chó, đánh chén. Chị Thơ bực lắm. Chưa cày trâu lần nào, nhưng chị tự tay chọn con trâu hung nhất, vác cày ra đồng.
Đã từng quan sát các thợ cày từ trước, nên chị Thơ tự tin lắm. Và con trâu ngang ngạnh nhất phải ngoan ngoãn nghe theo chỉ dẫn của chị, thả những đường cày thẳng tắp. Trời mỗi lúc một nắng gắt, đã quá trưa, chị vẫn miệt mài với cánh đồng. Thấy thế, mấy cụ phải tạm gác cuộc nhậu. Trâu ai nấy cày. Tới xẩm tối cánh ruộng đã cày xong, kịp cho công đoạn tiếp theo, nối vụ.
Người con gái duyên dáng mới hơn 20 tuổi dịu dàng nhưng quyết đoán ấy, sau này là chị kết nghĩa của tôi. Chính chị đã tiễn tôi ra mặt trận. Buổi tiễn tôi lên đường, hai chị em bách bộ dọc bờ sông.
Dưới ánh trăng như rải thủy ngân lấp lánh, chị ấn vào tay tôi vật kỷ niệm là chiếc khăn tay. Chị nắm chặt tay tôi. Khóc. Đó là lần đầu tiên tôi thấy chị khóc. Sau này chị nói với tôi, chiến tranh khốc liệt quá. Làng ta đã có hàng chục trai tráng ra đi không trở về. Chị nghĩ em cũng thế. Em sẽ không trở về và chị khóc.
Chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm. Ngôi làng nghèo xơ xác của chúng tôi bên dòng sông, giờ đây đã giàu có. Chỉ có chị Thơ vẫn thế. Chị không lấy chồng, sống trong ngôi nhà nhỏ cuối làng. Có người bảo, chị ở vậy để chăm sóc bà mẹ già gần một trăm tuổi. Người khác lại bảo, mấy chục năm trước, chị tiễn người yêu ra mặt trận. Kết thúc chiến tranh, anh ấy vẫn không về, và chị cứ mòn mỏi chờ đợi.
Người trẻ hay nói tới tương lai. Người già hay kể về quá khứ. Bà chị ngoài thất tuần của tôi, không chỉ kể về quá khứ mà luôn nói đến tương lai. Làm gì thêm nữa để góp sức vào “nông thôn mới”, góp vào sự đổi mới giàu có và ấm áp của quê hương. Chị nói cậu nghe, “nông thôn mới” cứ đổi mới.
Nhưng cái gì không cần đổi mới thì phải giữ cho bằng được, đó là nề nếp, gia phong, là tình người, trước hết là tình làng, nghĩa xóm. Giàu có, khang trang nhưng sao chị thấy người ta lạnh nhạt với nhau, còn lôi nhau ra tòa vì những việc liên quan tới lợi ích cá nhân.
Cậu viết báo, viết gì thì viết, nhưng cố gắng giúp mọi người hiểu ra và thương yêu nhau hơn nữa nhé. Chị dặn thêm: Cậu nên góp ý với chính quyền, nên giữ lại chợ Đông Biên. Đó là ký ức đẹp của thế hệ chúng ta một thời.
----------
Hải Hậu, Xuân Ất Tỵ - 2025