Mỗi thế hệ làm báo đều có thế mạnh riêng

(ĐTTCO) - ĐTTC có dịp trò chuyện cùng nhà báo lão thành Hà Đăng, người có gần 80 năm cầm bút trên “mặt trận báo chí”, từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đến thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập. 

Mỗi thế hệ làm báo đều có thế mạnh riêng

PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, ông có thể kể lại kỷ niệm của bài viết đầu tiên trong nghề báo của mình: “Tâm sự đồng bạc trong két sắt”?

Nhà báo HÀ ĐĂNG: - Năm 1947, đúng 18 tuổi tôi được kết nạp vào Đảng và tham gia cách mạng. Hồi đó tôi không nghĩ mình sẽ làm báo, chỉ được phân công làm Trưởng ban Tuyên truyền xã, làm loa phóng thanh, truyền tin cho bà con. Thời điểm đó, chúng ta có phong trào vận động quyên góp cho kháng chiến.

Ai ai cũng góp tiền cho kháng chiến, người nghèo thì góp một xu, một hào… để rồi từ một xu, một hào ấy lại thành lương thực, thực phẩm và vũ khí gửi ra chiến trường. Còn những ông phú hộ nhà giàu chỉ đóng góp cho có lệ. Tiền bạc thì họ có nhưng giấu trong két sắt, chẳng mảy may chia sẻ cho cuộc kháng chiến.

Vậy là tôi viết một bài báo để cho chính đồng bạc lên tiếng, tâm sự rằng nó tủi thân và thấy vô dụng khi chỉ nằm trong két sắt, mà không được góp sức như những đồng bạc khác. Không ngờ bài đó được đăng lên tờ báo Phấn Đấu. Sau bài báo đó, những phú ông cũng tỉnh ra phần nào và bỏ ra một phần để đóng góp cho kháng chiến. Đó cũng là một cái duyên, một khởi đầu không ngờ tới với nhiều bài báo nữa, gắn tôi với nghề báo cho đến tận hôm nay.

NhabaoHaDang.jpg

- Được biết không chỉ là một nhà báo chỉ viết về “đối nội”, mà ông còn là một nhà báo “đối ngoại” xuất sắc; không chỉ là nhà báo viết về đất nước trong thời bình, mà ông còn là cây viết cả bối cảnh thời chiến, mang đậm hơi thở thời cuộc. Ông có thể chia sẻ thêm?

- Sau 3 năm học ở Trường Đảng cao cấp Liên Xô, tháng 8-1964, tôi về nước và lại nhận nhiệm vụ ở Báo Nhân Dân, trực tiếp là Ban miền Nam của Báo. Lúc này, Mỹ đã bắt đầu ném bom đánh phá miền Bắc, gây ra cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt. Trưởng Ban miền Nam của báo là anh Trần Kiên.

Tôi là phó, được phân công phụ trách mảng quân sự và chính trị của miền Nam. Đây cũng là thời kỳ tôi viết sung sức nhất. Cứ vài ba ngày lại có tên trên mặt báo. Đó là những bài viết “Chiến tranh ở Nam Việt Nam lan đến Hoa Thịnh Đốn”, “Tòa đại sứ, phủ toàn quyền”, “Nava dạy khôn Mỹ”, “Taylo múa gậy trên vũng lầy”, “Mùa khô đại bại và sự bối rối của Giônxơn”, “Oétmolen “đánh trận mồm” ở Mỹ"...

Vào dịp Tổng tiến công Mậu Thân 1968, tôi viết xã luận “Cả miền Nam đang rầm rập xốc tới với khí thế xung thiên”, hay “Toàn dân đứng lên, khắp nơi nổi dậy”. Với riêng bài “Quân giải phóng đã trả lời sự thách thức của Mỹ ở Làng Vây”, chỉ rõ cái chốt Làng Vây đã bị diệt, thì Khe Sanh trên phòng tuyến Mắc Namara như cá nằm trên thớt.

Không ngờ 30 năm sau (năm 1998), Bộ Chỉ huy bộ đội Tăng thiết giáp đề nghị Báo Nhân Dân cho in lại bài báo đó để đưa vào bảo tàng của binh chủng, coi như là một minh chứng về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Làng Vây và trận đầu ra quân thắng lợi của binh chủng.

Sau Tết Mậu Thân, tháng 5-1968, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Paris. Đầu tháng 11, sau khi viết xong bài “Phá bĩnh và láo xược”, tôi đang lững thững dưới gốc cây đa ở 71 Hàng Trống, thì nhìn thấy xe anh Hoàng Tùng đi họp về. Anh nhìn thấy tôi liền gọi bảo: “Chuẩn bị đi Paris nhé”. Tôi hỏi: “Đi làm gì hả anh?”. Anh nói vui vui: “Đi làm phụ tá cho bà Bình”.

Tôi băn khoăn không biết sẽ làm nhiệm vụ gì. Thì ra tôi được cử tham gia Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Paris, nhiệm vụ được phân công là viết các bài phát biểu chuẩn bị sẵn của đồng chí Trưởng đoàn.

Những phiên họp đầu tiên, mỗi tuần một lần, tập trung vào việc nói rõ bản chất của cuộc chiến tranh và lập trường đàm phán của ta, khẳng định Mặt trận Dân tộc giải phóng là đại diện chân chính của Nhân dân miền Nam. Tôi viết bài rồi các thành viên trong đoàn đóng góp ý kiến, sửa chữa bổ sung.

Viết bài phát biểu của đồng chí Trưởng đoàn gặp nhiều khó khăn. Bài viết phải qua nhiều lần dự thảo, nhiều cấp sửa, duyệt, rất vất vả. Một bài đàm phán mà đưa ra tập thể bàn bạc thì quả là chín người mười ý. Tôi hơi bức xúc và xin gặp đồng chí Xuân Thủy đề nghị thay đổi quy trình viết.

Anh cười và đọc cho nghe một bài thơ vui của anh: “Cái nghiệp văn chương vốn thế thôi / Viết đi viết lại vẫn chưa rồi / Người giao anh viết: Anh là thánh / Anh viết, người chê dở nhất đời”. Anh Xuân Thủy kể, khi đọc cho anh Trường Chinh nghe bài thơ này, anh Trường Chinh họa lại như sau: “Đấu lý bao giờ cũng thế thôi / Nói đi nói lại vẫn chưa rồi / Chiến trường ta diệt thêm nhiều địch / Đế quốc rồi đây sẽ hết đời”.

Đàm phán Paris kéo dài gần 5 năm. Đã có 160 phiên họp, tức là có 160 bài diễn văn chuẩn bị sẵn. Tôi không nhớ mình đã viết bao nhiêu bài, nhưng chắc chắn là hơn một nửa.

- Sau khi chiến tranh kết thúc và đất nước thống nhất, dấu ấn của ông qua những trang viết phản ánh về công cuộc Đổi mới, cuộc chuyển mình của đất nước, cũng để lại rất sâu đậm trong lòng độc giả với hình thức mới lạ, sinh động. Vậy đâu là bí quyết để ông luôn có sức sáng tạo dồi dào như vậy?

- Là nhà báo, trước hết cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và đạo đức tốt, nhưng về nghiệp vụ cũng cần phải có khả năng làm việc tốt. Như Bác Hồ đã từng nói, cán bộ nói chung phải có đức có tài.

Đức là gốc, nhưng tài cũng rất quan trọng. Nhà báo có đức mà không có tài thì không thể có được tác phẩm hay. Cái tài của nhà báo ở đây là nắm bắt được đường lối, chủ trương chính sách, nắm bắt được tình hình, thực tế. Rồi bằng bút pháp của mình thể hiện những gì mình nắm bắt thành tác phẩm báo chí.

Có những người nắm bắt được đường lối rất vững nhưng thể hiện ra rất khó khăn. Có người nắm bắt được thực tiễn nhưng trong thực tiễn ngổn ngang, cái gì là chính yếu nhất, nổi bật nhất cần sử dụng cho bài báo thì lại lúng túng. Kinh nghiệm của tôi khi viết về đề tài đổi mới là phải suy nghĩ kỹ, chắt lọc được cái mới, tránh những gì mà các bài báo trước hay báo khác đã nói rồi.

- Nhìn lại hành trình 100 năm báo chí cách mạng đã qua, trải qua nhiều vị trí công tác từ phóng viên, Tổng Biên tập cho đến Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, đâu là dấu ấn quan trọng nhất cuộc đời làm báo của ông?

- Tôi làm báo cũng đã lâu. Nhưng thật ra có một câu nói của Bác Hồ mà chúng tôi xem đó là bài học suốt đời làm báo: “Báo chí là một mặt trận như các mặt trận khác, và nhà báo là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Hồi kháng chiến, đất nước ta có đủ thứ mặt trận: mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, mặt trận ngoại giao… và Bác Hồ cũng khẳng định báo chí là một mặt trận. Mà đã là chiến sĩ trên mặt trận ấy, thì cây bút và trang giấy chính là vũ khí sắc bén.

Với tôi, nếu để tóm tắt hành trình, dấu ấn cuộc đời làm báo có thể gói gọn trong mấy chữ: “hai Trung, hai Đại, hai Tổng, hai Trưởng và hai Trợ”. Mỗi cột mốc đều là một giai đoạn rất đáng nhớ. “Hai Trung” là tôi từng là Ủy viên Trung ương Đảng hai khóa: khóa VI và khóa VII.

“Hai Đại” là hai lần được bầu làm đại biểu Quốc hội, khóa VIII và khóa IX. “Hai Tổng” là hai lần giữ chức Tổng Biên tập: một ở báo Nhân Dân, một ở Tạp chí Cộng sản. “Hai Trưởng” là Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Trưởng Ban Chỉ đạo xuất bản Toàn tập Văn kiện Đảng. “Hai Trợ” là từng làm trợ lý cho Tổng Bí thư Lê Duẩn và sau này là Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

- Thưa ông, trong bối cảnh hiện nay khi trí tuệ nhân tạo (AI) đang phát triển mạnh mẽ và được ứng dụng cả trong lĩnh vực báo chí, nhiều người lo ngại rằng AI có thể thay thế nhà báo. Với kinh nghiệm và tầm nhìn của một nhà báo cách mạng lão thành, ông suy nghĩ thế nào về điều này?

- Về trí tuệ nhân tạo tôi cũng xin nói thật là không rành lắm. Công nghệ bây giờ thay đổi từng ngày, tôi lạc hậu rồi, cái gì cũng phải nhờ con cháu chỉ dẫn. Nhưng tôi tin rằng con người Việt Nam mình có cái hay, dù gian khổ đến mấy, cực nhọc đến mấy vẫn giữ được phong cách con người, giữ được lòng trong sáng và giữ được nề nếp gia phong của mình. Cho nên tôi không sợ lớp nhà báo trẻ sẽ tàn lụi trước AI.

Tôi tin rằng với sự hỗ trợ của khoa học, kỹ thuật, thế hệ nhà báo trẻ sẽ đi lên. Và chính tôi cũng phải nhờ vào thế hệ trẻ này. Tôi muốn nhắn gửi tới lớp nhà báo trẻ rằng: các cháu sinh ra trong thời đại mới, có công cụ mới, có thách thức mới nhưng cũng có nhiều cơ hội. Hãy tận dụng công nghệ để làm báo tốt hơn, nhanh hơn, sâu hơn, chứ đừng để mình bị lệ thuộc hay bị thay thế.

- Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, ông có điều gì muốn nhắn gửi tới thế hệ những người cầm bút trẻ, những người đang bước đi trên con đường mà ông đã đi suốt gần một thế kỷ?

- Tôi giờ đã lớn tuổi rồi, tất nhiên mong muốn sự nghiệp báo chí sẽ tiếp tục phát triển. Mà muốn phát triển phải có người kế thừa. Trước là lớp trung niên, rồi sau là lớp trẻ. Nhưng lớp trung niên rồi cũng sẽ đến lúc già đi, nên cuối cùng vẫn phải trông cậy vào lớp trẻ, lớp từ 18 - 20 tuổi trở lên, mới vào nghề.

Có người hay đánh giá thấp lớp trẻ, vì cho rằng các em chưa có kinh nghiệm, còn non nớt. Nhưng tôi thì không nghĩ vậy. Không thể đánh giá thấp lớp trẻ, vì coi thường lớp trẻ là coi thường tương lai của đất nước. Tôi đã đọc nhiều bài báo do các bạn trẻ viết, có bài rất hay, rất sắc sảo, rất xứng đáng.

Nếu mình cứ khư khư nghĩ rằng, “mấy ông già mới biết viết báo, lớp trẻ thì biết gì”, đó là sai lầm. Ngược lại, nếu lớp trẻ lại nghĩ “giới già hết thời rồi, tụi tôi mới là tương lai”, thì cũng không đúng.

Mỗi thế hệ đều có vai trò, có điểm mạnh riêng, không nên tách rời hay so bì nhau, mà phải nối tiếp nhau, bồi đắp cho nhau. Người đi trước có kinh nghiệm, có chiều sâu. Người đi sau có nhiệt huyết, có sự sáng tạo, tiếp nối thành quả mà thế hệ đi trước để lại.

- Xin trân trọng cảm ơn ông. Chúc ông luôn có sức khỏe tốt, vững vàng của một nhà báo năm xưa.

-------------

Nhà báo Hà Đăng nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), nguyên Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Các tin khác