Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau

(ĐTTCO) - Nhà thơ Hoài Vũ năm nay bước vào tuổi 90. Ông là một nhân vật văn chương gắn bó với cách mạng miền Nam. Nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ Trương Quang Lục, Thuận Yến, Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành những ca khúc nổi tiếng.

Nhà thơ Hoài Vũ với các thành viên Hội Nhà văn TPHCM.
Nhà thơ Hoài Vũ với các thành viên Hội Nhà văn TPHCM.

1. Nhà thơ Hoài Vũ tên thật Nguyễn Đình Vọng, sinh năm 1935 tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 12 tuổi, bé trai Nguyễn Đình Vọng rời quê nhà theo học Trường thiếu sinh quân Khu 5 để bắt đầu thực hiện ước mơ góp sức giải phóng non sông khỏi ách nô lệ.

Tâm hồn non nớt ấy, nhiệt huyết hồn nhiên ấy, được bồi đắp thêm khi chàng trai Nguyễn Đình Vọng tập kết ra Bắc năm 1954 để được đào tạo bài bản. Tốt nghiệp Đại học Văn khoa tại Bắc Kinh, ông lại về Hà Nội học khóa cấp tốc dành cho phóng viên chiến trường.

Cuối năm 1963, Nguyễn Đình Vọng cùng một đoàn văn nghệ sĩ nhận nhiệm vụ chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Lặn lội suốt 3 tháng, băng rừng, trèo đèo lội suối, ông đặt chân đến Căn cứ Trung ương cục miền Nam. Và không ai ngờ, chính khói lửa dọc 2 nhánh sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây đã biến chiến sĩ lãng mạn Nguyễn Đình Vọng thành nhà thơ đôn hậu Hoài Vũ.

Bút danh Hoài Vũ, có nghĩa là nhớ mưa. Nghe hơi ướt át chăng? Không hẳn. Chàng trai Nguyễn Đình Vọng học văn chương ở Bắc Kinh nên thẩm thấu quan niệm về điềm tốt lành những cơn mưa mang lại cho cuộc đời. Bút danh Hoài Vũ, như một niềm nguyện cầu cho bản thân, và cũng như một nỗi mong chờ cho dân tộc.

Kế thừa vẻ đẹp mong manh giữa trùng phùng và ly biệt “thiếp tại Tương giang đầu, chàng tại Tương giang vĩ, tương tư bất tương kiến, đồng ẩm Tương giang thủy” của nữ sĩ thời Hậu Đường - Lương Ý Nương trong bài thơ “Trường tương tư”, Hoài Vũ đã viết bài thơ “Gửi miền Hạ” với những câu mở đầu thanh thoát: “Anh ở đầu sông, em cuối sông/Uống chung dòng nước Vàm Cỏ Đông/Thương nhau đã chín ba mùa lúa/Chưa ngày gặp lại nhớ mênh mông”.

Dù sau này “Gửi miền Hạ” được đổi tên thành “Anh ở đầu sông, em cuối sông”, tác phẩm không phải một bài thơ tình đơn thuần. Bởi lẽ, Hoài Vũ đặt câu chuyện rung động trai gái xuống dưới câu chuyện sinh tử đạn bom, cả về kỷ niệm “Năm xưa đứng gác Vàm Nhựt Tảo/Tân Trụ đang mùa gạo ngát hương” lẫn về thực tại “Cây bần hò hẹn không còn bóng/Cầu ao em gội đổ chơ vơ/Đêm đêm nghe rì rầm tiếng sóng/Như thầm kêu du kích ven bờ”.

Không gian thơ của Hoài Vũ được xác lập từ chiến khu Tân Biên, Tây Ninh - nơi 2 nhánh sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây từ lưu vực tỉnh Prey Veng (Campuchia) chảy song hành dích dắc vào lãnh thổ Việt Nam, đến ngã ba Cây Bần Quỳ cuối huyện Tân Trụ, Long An - nơi 2 nhánh sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây nhập lại một đổ vào sông Soài Rạp.

Vì vậy, suốt một thập niên từ 1963-1975, sóng của Vàm Cỏ Đông đã lặn vào thơ Hoài Vũ mà gió của Vàm Cỏ Tây cũng thổi vào thơ Hoài Vũ. Và lắm phen, sóng Vàm Cỏ Đông và gió Vàm Cỏ Tây cùng hội tụ trong một bài thơ: “Đời hai ta gắn bó với hai sông/Em - Vàm Cỏ Tây, anh - Vàm Cỏ Đông/Mỗi tối triều lên chao sóng nước/Bìm bịp kêu xao xác cả hai dòng”.

Tang-sach-1.jpg
Nhà thơ Hoài Vũ ký tên lưu niệm cho độc giả nhí

Và trên dòng sông Vàm Cỏ ấy, nhà thơ Hoài Vũ đã được một cô giao liên tên Lan ân cần chăm sóc khi ông bị sốt rét vào năm 1968. Cơn sốt rét lùi xa, họ tạm biệt nhau để mỗi người một đường công tác. Tình cảm ấy cứ theo nhà thơ Hoài Vũ suốt bao năm. Mùa xuân năm 1971, ông quay lại chốn cũ tìm người xưa mới hay cô giao liên Lan đã hy sinh trong một trận càn của Mỹ.

Bẽ bàng và xót xa, nhà thơ Hoài Vũ viết bài thơ “Đi trong hương tràm” để bái vọng cố nhân: “Em gửi gì trong gió trong mây/Để sáng nay lên Vàm Cỏ Tây/Hoa tràm e ấp trong vòm lá/Mà khắp trời mây hương thoảng bay/Dù đi đâu, và xa cách bao lâu/Dù gió mây kia đổi hướng thay màu/Dù trái tim em không trao anh nữa/Một thoáng hương tràm cho ta bên nhau”.

2. Thơ Hoài Vũ có thế mạnh vượt trội ở nhạc tính. Đã có nhiều nhạc sĩ phổ thơ ông để ra đời hàng chục ca khúc nổi tiếng. Thế nhưng, khi đọc thơ Hoài Vũ sẽ thấy không ít câu thơ hay vẫn còn nằm lại văn bản, thổn thức hơn và day dứt hơn ca từ bay bổng.

Bằng sự đồng cảm của đồng chí, Hoài Vũ nhận ra ”Trên mảnh vườn cô dũng sĩ” lấp lánh buồn vui khốn khó và mất mát: “Là dũng sĩ mà tâm hồn thi sĩ/Mảnh vườn em bát ngát hương thơ/Có ngọn tầm vông vói lên trời xanh thủ thỉ/Có lượn sóng say mê lăn sức sống vào bờ…/Ta muốn hỏi bụi tầm vông mấy lần giặc ủi/Tầm vông nhớ ai, mà trồi dậy, đứng hiên ngang/Ta muốn hỏi khóm huệ này, giặc từng đốt trụi/Huệ vì ai mà xòe bông, khoe sắc giữa hoang tàn?”.

Mùa xuân năm 1972, nhà thơ Hoài Vũ gặp được lương duyên đích thực của đời mình. Người nữ cán bộ ấy là Nguyễn Thị Thơ, nhỏ hơn nhà thơ Hoài Vũ 5 tuổi. Đám cưới của họ được tổ chức trong bưng biền kháng chiến, vào ngày 26-3-1972. Sau đám cưới ít lâu, họ phải xa nhau để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Nhà thơ Hoài Vũ trở lại Căn cứ trung ương Cục miền Nam phụ trách tạp chí Văn Nghệ Giải Phóng. Còn người vợ Nguyễn Thị Thơ mang giọt máu của ông quay vào nội thành tiếp tục hoạt động phong trào và sinh cô con gái Nguyễn Phương Thảo. Tháng 5-1975, nhà thơ Hoài Vũ mới được sum họp với người vợ và được bồng bế đứa con gái 3 tuổi trong niềm vui chung đất nước hòa bình lẫn niềm vui riêng kết thúc chuỗi ngày day dứt: “Người ấy bây giờ đang ở đâu / Ví bằng hóa đá để bên nhau / Trái tim dám xẻ làm muôn mảnh / Nối bến bờ xa mấy nhịp cầu”.

Thơ Hoài Vũ dịu nhẹ như con người của ông, nên đôi lúc rộng rãi về cảm xúc và hào phóng về ngôn từ. Sau ngày non sông thống nhất, nhà thơ Hoài Vũ cũng được đảm nhiệm nhiều chức vụ, nhưng trước hết và sau cùng ông vẫn là một nhà thơ cách mạng, một nhà thơ chân thành ngay giữa những bộn bề và ganh đua: “Không có tình yêu nào làm lòng ta nhức nhối/Như tình yêu Trường Sơn dưới bom gầm pháo dội/Không có tình yêu nào khiến đời ta sôi nổi/Như tình yêu Trường Sơn lượn giữa mây xanh/Lớn lên bằng tiếng động Trường Sơn, màu sắc Trường Sơn/Nên tâm hồn ta ngang dọc những lối mòn/Dẫu chưa về lại rừng xanh thẳm/Vẫn nghe thác đổ giữa Sài Gòn”.

Bây giờ, ở tuổi 90, nhà thơ Hoài Vũ vẫn lặng lẽ viết giữa mái ấm hạnh phúc. Con đường thi ca của ông cứ bồi hồi rung động, như một cá tính khiêm nhường với người, như một thái độ tận tụy với nghề.

Công chúng chỉ cảm nhận hết tấm lòng cống hiến từ nhà thơ Hoài Vũ, khi những câu chữ giàu nhạc tính của ông vang vọng trong từng khoảnh khắc nhớ nhung: “Anh như cơn gió bay khắp chốn/Ðể lại mình em với ruộng, với vườn/Mồ hôi đổ giữa ngày mùa bận rộn/Nước mắt trào lạnh buốt những đêm sương/Xa em, anh như tia nắng đi trên cát/Thèm một dòng sông, những cánh đồng/Xa em, anh như người hát sau đêm hát/Chỉ thấy gió vật vờ qua những tấm phông/Anh đi em nhé! Lòng nhủ khẽ/Hoàng hôn cũng về, dịu êm và lặng lẽ/Một tiếng còi tàu vọng lại phía sông xa/Như muốn nhắc thầm anh: Cơn bão sắp đi qua”.

Các tin khác