Tuổi trẻ ngang dọc bưng biền
Nhà văn Nguyên Hùng tên thật Mạc Đăng Thân, còn có bút danh Thùy Lê Anh, sinh năm 1927. Mang dòng máu văn chương họ Mạc, nhà báo nhà văn tương lai rất say mê đọc sách báo và bắt đầu tập viết lách từ thời còn học ở Trường Trung học Petrus Ký nổi tiếng. Như bao thanh niên học sinh yêu nước lúc ấy, ông đã xuống đường tham gia Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nước nhà độc lập chưa được bao lâu, quân Pháp tái xâm lược, đánh chiếm Sài Gòn và Nam bộ, ông trở về thăm gia đình một thời gian rồi vào bưng biền tham gia kháng chiến. Cũng từ đây ông bước vào con đường cầm bút, làm báo Chống Xâm Lăng, cơ quan ngôn luận của Đảng bộ thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Đầu năm 1948, ông được điều chuyển về làm việc tại Sở Thông tin Nam bộ đóng ở chiến khu Đồng Tháp Mười. Ông là học viên khóa báo chí đầu tiên được đào tạo trong căn cứ kháng chiến Nam bộ, do nhà yêu nước Nguyễn Văn Thu từ Pháp về phụ trách giảng dạy.
Đến tháng tháng 7-1948, sau Đại hội Thông tin Phân ban A Sở Thông tin, gồm các tỉnh miền Đông Nam bộ, chàng phóng viên trẻ họ Mạc được cử về Biên Hòa theo đề nghị của Trưởng ty Thông tin Hoàng Tam Kỳ và Trưởng Phân ban A Trịnh Đình Trọng. Theo Nguyên Hùng, ông vốn bị quyến rũ bởi Chiến khu Đ và uy danh thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, nhất là sau khi đọc bài bút ký Khách đô thành viếng Chiến khu Xanh của Bùi Thanh Khiết viết về chiến thắng La Ngà oai hùng trên báo Tiền Đạo số đặc biệt ra ngày 1-3-1948 của Khu 7. Trong trận giao thông chiến lừng lẫy ấy, có mấy nữ sinh Trường Couvent des Oiseaux của Đà Lạt bị kẹt lại một đêm trong chiến khu rừng xanh. Nhờ đó họ hiểu hơn cuộc sống kháng chiến lãng mạn và hào hùng, khác xa với những đô thành do Pháp tạm chiếm.
Nhà văn Nguyên Hùng (thứ 3 từ phải sang) trong chuyến đi thực tế ở An Giang
cùng đoàn nhà văn TPHCM năm 2000. Ảnh: P.H
cùng đoàn nhà văn TPHCM năm 2000. Ảnh: P.H
Nguyên Hùng gắn bó với Chiến khu Đ gần 5 năm, đã giúp ông nhanh chóng trưởng thành. Ông đã được gặp gỡ Khu trưởng Huỳnh Văn Nghệ và nhiều yếu nhân khác như Nguyễn Văn Lung, Bùi Cát Vũ… và viết nhiều ký sự nóng hổi mùi chiến trận. Dấu ấn đầu tiên là loạt bài Hào khí Đồng Nai vào mùa khu 1948, sau chiến thắng đồn Thới Hòa ở quận Bến Cát.
Vào tháng 6-1953, Nguyên Hùng là thành viên trong đoàn về bưng biền Đồng Tháp Mười an dưỡng. Cũng từ đó ông xa hẳn Chiến khu Đ cho tới khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Trong hồi ký nhà văn Nguyên Hùng nhớ lại: “Tính sổ, tôi lên Biên Hòa ngày 14-7-1948 tới tháng 6-1953 là tròm trèm 5 năm. 5 năm trong 9 năm kháng Pháp là hơn một nửa cái gọi là “thời chín năm”. Tôi tới bờ sông Đồng Nai với lứa tuổi hăm mốt và chia tay Hào khí Đồng Nai ở lứa tuổi hăm sáu. Tạm biệt con người Chiến khu Đ, quê hương sáng tác của tôi sau này. Tóm lại, cái được lớn lắm, không ước lượng được trở thành nhà văn phải nhờ nhiều yếu tố, mà năm năm sống ở Chiến khu Đ là yếu tố hàng đầu”.
Về lại Sài Gòn hoạt động báo chí yêu nước
Về lại Sài Gòn hoạt động báo chí yêu nước
Sau Hiệp định Geneve năm 1954, cùng một số nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Thậm Thệ Hà, Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Trang Thế Hy, Lưu Nghi, Thiếu Sơn, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Bằng Giang, Kiên Giang, Kiêm Minh… Nguyên Hùng đã từ bưng biền kháng chiến về Sài Gòn tiếp tục hoạt động báo chí công khai, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà. Ông viết bài cho nhiều tờ báo như Lẽ Sống, Nhân Loại, Duy Tân, Dân Ta, Dân Tiến, Thời sự miền Nam… Vừa làm báo vừa viết văn Nguyên Hùng cũng không ngừng tự học, thông thạo các ngoại ngữ Pháp, Anh, Đức.
Vào thời điểm căng thẳng này của miền Nam, tờ tuần báo Duy Tân có xu hướng tiến bộ đã bị chính quyền đóng cửa tòa soạn, 2 cây bút chủ trương tờ báo là Lý Văn Sâm và Dương Tử Giang bị bắt. Nhận sự chỉ đạo của Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, tức Khải Minh, Bí thư Ban trí vận Thành ủy Sài Gòn- Gia Định, 2 nhà báo Trường Xuân Trúc và Nguyễn Bảo Hóa (Tô Nguyệt Đình) đã đứng ra tổ chức một tuần báo văn nghệ mang tính thời sự, xã hội làm diễn đàn cho cuộc đấu tranh hiệp thương thống nhất đất nước. Kinh phí tự vận động đóng góp. Để hoạt động công khai chính thức, họ thuê manchette tờ Nhân Loại vốn ra đời từ năm 1953 do Trần Đức Ước sáng lập, Anh Đào làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Khi tờ Nhân Loại chuyển sang cho các nhà văn, nhà báo yêu nước xuất thân kháng chiến, Nguyên Hùng - Thùy Lê Anh nhờ sớm có giấy tờ cá nhân hợp pháp nên được mời đứng tên thư ký tòa soạn. Ông và Trường Xuân Trúc mỗi người tiên phong đóng góp 500 đồng cho quỹ làm báo. Tòa soạn đặt tại Nhà in Hồ Văn Lợi, 316 Bến Chương Dương, quận 1. Từ số đầu tiên, tờ Nhân Loại đã có bài viết của các tên tuổi như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Tô Nguyệt Đình, Trường Xuân Trúc, Tiêu Kim Thủy, Lê Dân, tiếp đến là Lê Vĩnh Hòa, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy, Viễn Phương, Vũ Hạnh, Kiên Giang, Ngọc Linh… Dù chỉ làm thư ký tòa soạn một thời gian ngắn rồi bàn giao, nhưng nhà văn Nguyên Hùng vẫn gắn bó chặt chẽ với tờ báo Nhân Loại từ kinh tài tới nội dung. Từ diễn đàn này nhiều cây bút tài năng có cơ hội thể hiện, nhiều tác phẩm có giá trị đã trình làng, tạo nên diện mạo riêng cho dòng văn học yêu nước ở miền Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước.
Khi chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành chính sách “tố cộng, diệt cộng” đã bắt giam 11 nhà báo và 3 trí thức ở Sài Gòn từng tham gia kháng chiến chống Pháp, trong đó có Nguyên Hùng. Họ bị đưa về biệt giam ở Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Biến cố này đã gây căm phẫn đối với những người yêu nước, được dư luận báo chí và nhân dân miền Nam rất quan tâm.
Trước tình hình này, Tỉnh trưởng Định Tường là ông Nguyễn Trân nhận lệnh của cấp trên từ đô thành Sài Gòn, buộc phải tổ chức một cuộc đấu lý công khai với 14 trí thức và nhà báo về độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ông ta mạnh miệng tuyên bố: “Nếu các ông làm tôi đuối lý tôi sẽ từ chức tỉnh trưởng”. Cuộc tranh luận nảy lửa đã diễn ra trước sự chứng kiến của đông đảo trí thức, nhà văn, nhà báo từ Sài Gòn kéo xuống Mỹ Tho tham dự. Trước những phản biện sắc bén của 14 tù nhân yêu nước, viên tỉnh trưởng bị đuối lý, buộc phải trả tự do cho các nhà báo và trí thức sau 8 tháng giam giữ. Một thời gian ngắn sau đó ông Nguyễn Trân, dù không giữ đúng lời hứa rời ghế quan đầu tỉnh Định Tường, nhưng đã bị Tổng thống Ngô Đình Diệm cách chức.
Cách đây 15 năm, vào ngày 28-3-2005, nhà văn Nguyên Hùng đã đột ngột qua đời ở tuổi 78, sau một tai nạn giao thông trong nỗi tiếc thương của người thân, đồng nghiệp. Ông ra đi giữa bao dự định văn chương còn dang dở. Thương ông, tiếc cho văn học Nam bộ mất đi một cây bút nhiệt thành còn có thể lưu giữ những trang ký ức quý báu về lịch sử vùng đất mới phương Nam.