Nhật Bản có được các thành công nói trên do nước này đã phải đối mặt và xử lý tốt các thách thức to lớn, trước các nước phương Tây cả chục năm. Thí dụ tình trạng giá trị đồng yên cao trong suốt những năm 1980, khủng hoảng tài chính 1998, khủng hoảng ngân sách và nợ công trong những năm 2000 và từ năm 2011 là thảm họa hạt nhân Fukushima. Theo chuyên gia kinh tế Hajime Takata, thuộc Viện nghiên cứu Mizuho, Nhật Bản đã trải qua tất cả các thách thức mà thế giới hiện nay đang phải đối mặt.
Để xử lý được các thách thức, Nhật Bản đã phải tiến hành cải cách sâu rộng lĩnh vực ngân hàng. Nhờ vậy, kinh tế nước này không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đi đầu trong việc áp dụng các biện pháp phi truyền thống để chống lại tình trạng giảm phát, trước cả Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Ngân hàng Nhật Bản có tỷ lệ mua công trái do nhà nước phát hành cao nhất thế giới, chiếm đến 26%.
Để xử lý được các thách thức, Nhật Bản đã phải tiến hành cải cách sâu rộng lĩnh vực ngân hàng. Nhờ vậy, kinh tế nước này không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đi đầu trong việc áp dụng các biện pháp phi truyền thống để chống lại tình trạng giảm phát, trước cả Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB). Ngân hàng Nhật Bản có tỷ lệ mua công trái do nhà nước phát hành cao nhất thế giới, chiếm đến 26%.

Cho dù Nhật Bản có tỷ lệ nợ công cao nhất thế giới (tương đương 250% GDP) nhưng điều này không gây nguy hiểm cho nền kinh tế vì toàn bộ chủ nợ là tác nhân Nhật Bản. BOJ cũng là ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới, vào năm 2001, đã áp dụng lãi suất cho vay 0%. Chuyên gia Hajime Takata nhấn mạnh Nhật Bản dẫn đầu thế giới trong việc đưa ra các giải pháp chống khủng hoảng và ông không ngần ngại nói đến việc “Nhật hóa nền kinh tế toàn cầu”, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Có một lĩnh vực khác mà Nhật Bản tỏ ra mạnh hơn cả và khiến các chuyên gia phải thán phục, đó là dân số và nguồn nhân lực. Hiện nay, mỗi năm dân số Nhật Bản giảm 885.000 người và đến năm 2060 nước này chỉ còn 40 triệu dân. Vào tháng 10-2015, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đề ra mục tiêu mỗi phụ nữ Nhật Bản phải có 1,8 con, thay vì 1,45 như hiện nay. Bên cạnh đó, Nhật Bản thành lập một hội đồng đa thế hệ, dự báo một xã hội với tuổi thọ 100 năm, trên cơ sở giả thuyết một đứa trẻ sinh ra năm 2007 có tới 50% cơ may sống đến 100 tuổi. Việc kéo dài tuổi thọ đi kèm với tỷ lệ sinh đẻ thấp làm giảm số người trong độ tuổi lao động. Theo số liệu của Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản, trong giai đoạn năm 2012-2016, số người trong độ tuổi từ 15-64 đã giảm 3,9 triệu người nhưng số người làm việc lại tăng 1,85 triệu. Điều này xuất phát từ 2 lý do. Thứ nhất, số phụ nữ Nhật Bản đi làm tăng mạnh, còn cao hơn cả ở Hoa Kỳ. Thứ hai, huy động đàn ông ở độ tuổi nghỉ hưu quay lại làm việc, với 1/3 số đàn ông trong độ tuổi từ 70-74 đi làm việc. Do xã hội Nhật Bản chưa cởi mở trong việc đón nhận lao động nước ngoài, Thủ tướng Shinzo Abe chủ trương phát triển tự động hóa và xã hội siêu thông minh hay còn gọi là xã hội 5.0 (phiên bản 4.0 là xã hội công nghiệp). Do bối cảnh thế giới và quốc gia, Nhật Bản trở thành một phòng thí nghiệm cho mô hình tăng trưởng mềm. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những điểm tồn tại cần khắc phục: để tăng ngân sách, quyết định tăng thuế giá trị gia tăng VAT từ 8% lên 10% vào năm 2019, luật lệ lao động sơ cứng, nhiều định chế chính trị-hành chính bảo thủ… Vậy các nước giàu có nên theo mô hình Nhật Bản hay không? Tờ Le Figaro nhận định khai thác tối đa lá bài toàn cầu hóa, Nhật Bản là mô hình trái ngược hẳn với tư tưởng dân túy về kinh tế của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Tự hào về nền văn hóa của mình, Nhật Bản đã hiểu rằng cần phải thay đổi tất cả để duy trì sự ổn định.