Một trong những vai trò quan trọng của báo cáo tài chính (BCTC) là công bố tình hình kinh doanh, sức khỏe tài chính của doanh nghiệp đến với công chúng. Nhưng đối với CTCK, những vai trò như trên gần như không phát huy tác dụng.
Từ lỗi mốt
![]() |
Minh bạch của CTCK ảnh hưởng lớn đến thị trường và NĐT |
Theo một chuyên gia kế toán-kiểm toán, BCTC các CTCK hiện nay không còn đủ sức lột tả những vấn đề của CTCK nữa vì có quá nhiều kẽ hở để “bùa chú”. CTCK cũng không thể so đo rằng những doanh nghiệp sản xuất hay thương mại có thể sử dụng thủ thuật kế toán thì mình cũng có quyền.
Lý do nằm ở tầm ảnh hưởng và vị thế của CTCK. Chủ tịch HĐQT CTCK bỏ trốn không chỉ ảnh hưởng đến công ty, khách hàng mà còn có thể tác động đến ngân hàng, tâm lý của hàng triệu NĐT. Trong khi đó, những vụ thủ quỹ thụt két, giám đốc ăn hối lội đã trở nên quá quen thuộc với mọi người và ảnh hưởng cũng chỉ ở mức độ nhất định.
Một trong những nguyên nhân chính khiến TTCK cứ sau một quãng thời gian lại bị “bóng ma” giải chấp đe dọa nằm ở sự “bưng bít” của các CTCK trong các khoản vay và cho vay của mình. Ngoài vấn đề thiếu chuyên nghiệp, minh bạch của các nhà quản trị, sự lỗi mốt của BCTC cũng góp phần không nhỏ để tiếp tay cho CTCK.
Cho đến giờ, những con số chính xác về các khoản tiền CTCK cung cấp đòn bẩy tài chính cho NĐT là bao nhiêu vẫn không ai biết, 10.000 hay 20.000 tỷ đồng hay hơn nữa rất khó để nhận diện.
Trong BCTC quý I của CTCK VNDirect (VND), công bố khoản mục “Phải thu về bảo lãnh thanh toán tiền mua chứng khoán của người đầu tư” gần 735 tỷ đồng. Thoạt nhìn có vẻ rõ ràng nhưng không ai biết được khoản tiền bảo lãnh này bao gồm những thời hạn nào 3 ngày hay 3 tháng và dành cho nhóm NĐT nào, VIP hay cá nhân.
Trong BCTC năm 2010 của CTCK FPT (FPTS) khoản mục “Phải thu khác” có giá trị gần 1.110 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so với vốn điều lệ của công ty nhưng lại không thấy nói cụ thể “khác” là như thế nào. BCTC của VND được đánh giá là “dễ nhìn, dễ đọc” nhưng cũng có CTCK sử dụng những tên gọi khoản mục và cách thuyết minh rất khó chịu.
ĐTTC đã từng có bài viết đặt nghi vấn về vấn đề một số CTCK tầm trung sử dụng những thủ thuật như tự mua tự bán hoặc gia tăng đòn bẩy cho khách hàng để tăng doanh thu với mục đích lọt vào top 10.
Nhưng để cơ quan quản lý thay đổi phương pháp hạch toán cho riêng CTCK không hề đơn giản và nếu làm được phải tốn rất nhiều thời gian.
Đến cải tiến
Một trong những nguyên tắc kế toán được đề xuất cho BCTC của CTCK là: mark to market, có nghĩa là kế toán theo giá thị trường. Lấy ví dụ, CTCK đứng ra bảo lãnh cho NĐT vay 75 tỷ đồng để mua 1 triệu CP DIG vào đầu năm 2010.
Nếu NĐT tiếp tục giữ CP và kéo dài hợp đồng bảo lãnh đến bây giờ thì giá trị danh mục sẽ chỉ còn hơn 18 tỷ đồng. Trong trường hợp NĐT không trả nợ được, CTCK buộc phải giải chấp và lỗ trắng 57 tỷ đồng, hơn 75%. Trong trường hợp này, CTCK dù bán hay không bán cũng coi như lỗ. Mấu chốt ở đây là cách thức hạch toán thế nào để người ngoài có thể “thấy” được vấn đề.
Có bao nhiêu CTCK “sẵn sàng” công khai các khoản bảo lãnh đã giảm giá trị còn bao nhiêu từ đó tính toán được áp lực giải chấp? Có lẽ là rất khó. Ngay cả danh mục tự doanh của CTCK hiện nay cũng không được công khai thì việc điểm mặt chỉ tên các khoản bảo lãnh của CTCK là cực khó.
Trong trường hợp áp dụng nguyên tắc mark to market, vấn đề này sẽ được giải quyết phần nào. Nói nôm na, phương pháp này cũng tương tự như việc trích lập dự phòng cho danh mục đầu tư, ở đây là trích lập dự phòng hoặc ghi nhận những khoản lỗ do các món nợ khó đòi của CTCK.
Chỉ cần áp dụng nghiêm túc chắc chắn bức tranh giải chấp của CTCK sẽ lộ diện rõ nét hơn. Trước mắt, có thể áp dụng theo quý, trong BCTC quý nên tiến đến công đoạn này. Từ đánh giá theo quý, sẽ tiến hành đánh giá theo tháng.
Ở đây, nếu CTCK “sợ quê” hoặc gây ảnh hưởng đến tâm lý NĐT hay thị trường, UBCKNN sẽ đứng ra chịu trách nhiệm, thu thập thông tin, giám sát để từ đó có những giải pháp ngăn chặn những đợt giải chấp không đáng có hoặc áp trần đòn bẩy cho CTCK. Thà chịu “đau” nhưng tất cả công khai còn hơn “bưng bít” để rồi khi trở thành ung nhọt, sẽ rất khó cắt bỏ.