Dùng truyện Tàu thuyết phục lính mã tà
Cuộc đời tướng Tô Ký gắn liền với mảnh đất thép Hóc Môn - Củ Chi của Gia Định xưa, với Mười tám thôn vườn trầu lừng danh sử sách. Vốn liếng Nho học là nguồn tri thức có ảnh hưởng nhiều tới cách sống và ứng xử của ông sau này, nhất là trong những thời điểm chông gai thử thách. Ông cũng học võ thuật và trở thành người giỏi võ có hạng, giúp ông tự tin hành xử trong nhiều tình huống éo le, giúp đỡ người yếu đuối hoạn nạn, khuất phục nhiều giang hồ hảo hán.
Cuộc đời tướng Tô Ký gắn liền với mảnh đất thép Hóc Môn - Củ Chi của Gia Định xưa, với Mười tám thôn vườn trầu lừng danh sử sách. |
Theo kế hoạch, vào một đêm sau Tết Tân Tỵ 1941, một cuộc vượt ngục của những người tù cộng sản đã diễn ra và thành công. Đoàn tù 8 người vượt ngục chia làm 2 nhóm. Một nhóm 5 người cải trang chạy về hướng Sài Gòn. Còn nhóm 3 người là các ông Trần Văn Giàu, Châu Văn Giác và Tô Ký đã băng rừng trốn lên Đà Lạt. Tuy nhiên, do thực dân Pháp ra lệnh truy nã gắt gao, hình ảnh 8 tù nhân cộng sản dán khắp nơi, nên chẳng bao lâu sau, Tô Ký đã bị địch bắt trên cao nguyên và đưa về Sài Gòn giam giữ. Ở trong tù ông lấy thân mình che chở, đỡ đòn cho những bạn tù chính trị sức khỏe yếu bị địch tra tấn. Vì còn trẻ và chưa giữ vị trí quan trọng nào trong tổ chức, Tô Ký chỉ bị tòa kêu án 6 tháng tù ngồi, đưa lên giam ở căng Bà Rá, rồi chuyển lên khám Tây Ninh.
Thiếu tướng Tô Ký và phu nhân thời trẻ.
Thời kỳ ở ngục Tây Ninh chủ yếu Tô Ký làm tạp dịch, lo chuyện bếp núc nấu ăn cho cai ngục và tù nhân. Nhờ tài ăn nói khéo léo, biết sử dụng thành ngữ Hán học dịch ra quốc ngữ, đặc biệt thuộc làu nhiều truyện tích của Trung Hoa, nên ở đâu Tô Ký cũng làm quen thân dễ dàng các viên cai ngục và lính canh. Đêm đêm, bên chén nước trà, lính canh ngồi mê mẩn nhìn Tô Ký múa võ và kể chuyện Thuyết Đường, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy hử… Họ dần “ghiền” truyện tích, võ nghệ và nể phục ông. Vì lẽ đó, ngày 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Tô Ký đã dễ dàng vận động thuyết phục lính mã tà giao súng cho tù chính trị để cùng bỏ trốn.
Ra Bắc về Nam và mãi yên nghỉ ở vườn trầu
Ra Bắc về Nam và mãi yên nghỉ ở vườn trầu
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa thành công, một đại đội gồm 120 lính Pháp của Trung đoàn số 5 thuộc địa đã trà trộn vào đơn vị đầu tiên của quân Anh - Ấn đến Sài Gòn, tái xâm lược nước ta. Nhằm có một lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy Gia Định và Xứ ủy Nam bộ đã quyết định thành lập Giải phóng quân liên quận từ 3 đơn vị nhập lại. Ngày 1-11-1945, tại làng Mỹ Hạnh Bắc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày nay, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa chính thức được thành lập. Tô Ký làm Chỉ huy trưởng, Trần Văn Trà làm Chính trị viên.
Ngoài nhiệm vụ chiến đấu, Giải phóng quân liên quận còn làm công tác vận động chính trị, dân vận, phân hóa các lực lượng ô hợp để thống nhất các đơn vị vũ trang. Giải phóng quân liên quận đã trở thành lực lượng nòng cốt thành lập các Chi đội 12, 14 và 15. Lúc chuẩn bị đón cái Tết kháng chiến đầu tiên năm 1945-1946, Chi đội trưởng Tô Ký đã đưa Chi đội 12 làm cuộc “chinh Đông” qua Tân Uyên phối hợp với Chi đội 10 của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ bày binh bố trận, ngăn chặn giặc Pháp từ Biên Hòa tấn công lên chiến khu Đ. Bị phục kích bất ngờ, quân Pháp chịu một số tổn thất và thoái lui không dám lấn chiếm căn cứ địa kháng chiến.
Bấy giờ, tình hình quân sự ở Sài Gòn - Nam bộ rất phức tạp, nhất là lực lượng Bình Xuyên. Tô Ký đã đích thân đến các đơn vị, gặp từng chỉ huy để tìm cách thuyết phục, dàn xếp nhằm ổn định lực lượng đồng lòng chống Pháp. Giữa lúc Tô Ký đang rối bời, tướng “độc nhãn” Nguyễn Bình xuất hiện với danh nghĩa Đặc phái viên Trung ương, như một vị cứu tinh cho Nam bộ đang thời kỳ “hỗn quân hỗn quan”. Tô Ký cùng Trần Văn Trà, Huỳnh Văn Nghệ đã giúp Nguyễn Bình từng bước thống nhất các lực lượng vũ trang Nam bộ, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Năm 1954, tập kết ra Bắc, Tô Ký lần lượt nhận nhiệm vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Sư đoàn 338, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Chính ủy kiêm Bí thư Quân khu ủy Quân khu Hữu Ngạn, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 3. Đứng trước tình hình căng thẳng do bộ đội tập kết từ miền Nam muốn sớm trở về giải phóng quê hương, Tô Ký đã gặp gỡ thuyết phục ổn thỏa từng đơn vị, cá nhân chờ chỉ thị của Trung ương. Sau đó ông điều động 4.000 quân dự bị về miền Nam chiến đấu, tiếp nhận và điều trị hàng vạn thương binh từ chiến trường…
Thiếu tướng Tô Ký cũng chỉ huy bộ đội xây dựng 7 nông trường kinh tế, tích cực tham gia công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải, đắp đê Chương Mỹ, Mai Lâm… Đặc biệt, khi nước nhà thống nhất, sắp nghỉ hưu, nhờ uy tín và tính cách “Anh Ba” Nam bộ, ông còn được biệt phái sang đặc trách công tác dầu khí ở phía Nam, sát cánh cùng Tướng Đinh Đức Thiện xây dựng ngành kinh tế mũi nhọn còn non trẻ này. Tô Ký để lại nhiều giai thoại xúc động khi lo chạy tiền, lương thực, thực phẩm, vải vóc… giữa hoàn cảnh đầy khó khăn thiếu thốn để nuôi người lao động. Ông được ngành dầu khí xem như “cây đũa thần” mang lại nhiều điều kỳ diệu.
Cách đây vừa đúng 20 năm, vào mùng 2 Tết Kỷ Mão 1999, Thiếu tướng Tô Ký bất ngờ nhắm mắt xuôi tay ở tuổi bát tuần. Cả đời vào tù ra khám, xông pha trận mạc, ra Bắc vào Nam, “hùm xám” Tô Ký đã trở về an nghỉ tại khu vườn ấu thơ yên tĩnh quê hương Mười tám thôn vườn trầu. Quanh ông vẫn âm vang những huyền thoại về một danh tướng nghĩa hiệp và anh hùng được mãi mãi truyền tụng.