Tác giả Michitake Aso là tiến sĩ sử học về môi trường toàn cầu, nói: “Đồn điền đã trở thành biểu tượng mẫu mực của cả xã hội nô lệ và dân tộc tự do. Chúng ta sẽ không thể hiểu lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20, nếu không tìm hiểu những tác động của các đồn điền lên môi trường và sức khỏe con người”. “Cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn Lịch sử - Sinh thái 1897-1975” mở đầu bằng câu chuyện về bác sĩ Yersin (1863-1943).
Nhiều người khâm phục sự đóng góp của Yersin đối với lĩnh vực y học, nhưng ít ai biết Yersin có thể xem là một trong những người đầu tiên trồng cao su ở khu vực Suối Dầu ngoại ô thành phố Nha Trang.
Giai đoạn quản lý Viện Paster, Yersin nghiên cứu sản xuất cao su từ giống hevea. Ông không chỉ quan tâm đến phương diện khoa học của nền nông nghiệp nhiệt đới, còn xem cao su là nguồn tài chính hỗ trợ cho các hoạt động khác của Viện Paster, và dần dần mở rộng diện tích canh tác cây cao su ở đồn điền Suối Dầu. Vào năm 1897, Yersin nhận 200 cây con từ Vườn Bách thảo Sài Gòn. Năm 1900, Suối Dầu có khoảng 30ha đất canh tác cao su, sau đó tăng lên 307ha năm 1914.
Vào những năm 1920, một loạt tổ chức lớn, từ Hội Thừa sai Paris tới Nhà thương điên Biên Hòa, cũng trồng cao su. Yersin cũng nhận thức được mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ, bắt đầu hợp tác với công ty Michelin. Vào năm 1905, Michelin trả Yersin 28,5 franc cho 1,316 kg cao su được lấy mủ lần đầu từ đồn điền Suối Dầu. Vào thập niên 1940, mỗi năm đồn điền này đã sản xuất 100 tấn mủ khô, một con số bé nhỏ so với tổng sản lượng của toàn Đông Dương, nhưng cũng đủ để Yersin chi trả kinh phí cho các hoạt động của Viện Paster.
Tác giả Michitake Aso chứng minh, sự có mặt của cây cao su được chính quyền thực dân Pháp rất chú trọng và đưa ra nhiều văn bản chỉ đạo chặt chẽ. Nghị định năm 1891 đã chỉ rõ tầm môi trường đối với sinh vật sống.
Thí dụ, Điều 63 liệt kê những lý do để bảo tồn rừng, bao gồm 6 điểm: (1) để giữ đất ở sườn núi; (2) để bảo vệ đất chống lại xói mòn do sông suối; (3) để duy trì nguồn nước; (4) để bảo vệ các cồn và bãi cát khỏi sự tác động của đại dương; (5) để bảo vệ biên giới, lãnh thổ và (6) để bảo vệ sức khỏe cộng đồng. 4 lý do đầu tiên có liên quan mật thiết đến sự điều tiết của rừng đối với môi trường và khí hậu địa phương. Lý do thứ 5, xem rừng là yếu tố ngăn chặn sự tấn công từ kẻ địch. Còn lý do thứ 6 cho thấy vai trò của rừng với vùng nhiệt đới có lợi cho con người.
Ban đầu, các chủ đồn điền tránh né khoa học về sinh thái, nhưng sau này nhờ ngày càng hiểu biết sâu sắc hơn, đồn điền trở thành nơi được ưu tiên để khảo sát sự chuyển đổi từ sinh thái học thuộc địa sang sinh thái học nhiệt đới. Các đồn điền cao su là những phòng thí nghiệm, trong đó sự kiểm soát đối với con người và các loại bệnh trên cây trồng được thử nghiệm và ứng dụng trên địa thế vùng Đông Dương.
Chủng tộc là khái niệm then chốt trong việc sử dụng sự kiểm soát đó, và trong thập niên 1910 kiến thức y sinh học nổi bật về bệnh sốt rét được kết hợp với sự phát triển của công nghiệp hóa nông nghiệp, để hình thành nên những ý tưởng về chủng tộc.
Trong sự hình thành và phát triển của cây cao su ở Việt Nam, không thể không nhắc đến việc chăm sóc tinh thần cho người lao động ở các đồn điền. Cuốn sách “Cây cao su ở Việt Nam dưới góc nhìn Lịch sử - Sinh thái 1897-1975” hé lộ sự tuyên truyền của các chủ đồn điền tập trung vào tiện ích vật chất và các mối quan hệ xã hội.
Một tờ nguyệt san có tên Liên Lạc đã nhấn mạnh các khía cạnh “thiên đàng” trong đời sống của công nhân. Nguyệt san đã phát hành ít nhất 30 số, trong khoảng thời gian từ tháng 1-1952 đến tháng 7-1954. Tiêu đề phụ của nguyệt san là “cơ quan thông tin giữa các đồn điền cao su miền Nam và miền Bắc Việt Nam”. Mỗi số nguyệt san đều dành nhiều “đất” để đăng những lá thư ngắn của công nhân đồn điền gửi cho người thân của họ.
Nhiều lá thư khá cảm động, trong thư cam đoan với các ông bố bà mẹ rằng người viết thư vẫn còn sống và sau đó hỏi thăm sức khỏe cô dì chú bác. Những dòng tâm sự trong các lá thư của những thợ nhà máy có chút học vấn cho đến những người thợ cạo mủ hầu như không biết chữ.
Có lý do để cho rằng, những người đầu tư cho tờ báo có thể đã cố gắng tạo dựng sự tin cậy bằng cách tìm kiếm những người lao động thực sự cho những câu chuyện này. Song lại chẳng có bức thư nào phàn nàn về điều kiện sinh hoạt trong các đồn điền, ngay cả khi các cuộc đình công của công nhân tiếp tục diễn ra, nghĩa là nguyệt san Liên Lạc do chủ đồn điền kiểm soát đã bị kiểm duyệt gắt gao.
Hành trình cây cao su ở Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm. Tác giả Michitake Aso đã có nhiều kiến giải, rất đáng để những người quan tâm đến cây cao su hôm nay tham khảo và suy ngẫm. Từ thập niên 1890 đến thập niên 1930, đất đai sẵn có với mức giá rẻ mạt khắp Đông Nam Á, đã thúc đẩy các đồn điền mở rộng lấn vào đất rừng, và các nghiên cứu tập trung vào những kỹ thuật mở rộng này.
Thêm nữa, trong thời kỳ thực dân, các nhà nghiên cứu ở Pháp chịu trách nhiệm về “các vấn đề nền tảng”, còn các nhà nghiên cứu ở Đông Dương đảm nhận “các vấn đề ứng dụng”.
Sau Thế chiến thứ hai, các nhà khoa học ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác vừa giành được độc lập, phải thực hiện nghiên cứu cơ bản và tạo ra sự liên kết giữa lý thuyết và thực nghiệm nhằm gia tăng sản lượng cao su. Đến lúc đó, sau hàng loạt thập niên mở rộng, vùng trồng cao su cùng với việc sáng lập các chính quyền do những người theo chủ nghĩa dân tộc điều hành đã bắt đầu đóng cửa vùng biên giới trồng cao su.
Và khi không còn chế độ kiểm soát của chính quyền thực dân, đất đai miễn phí và lao động giá rẻ không còn dễ tìm. Các nhà nghiên cứu buộc phải chuyển trọng tâm sang vấn đề làm sao để thu được thật nhiều mủ trên mỗi ha cao su.