Sau khi đăng tải, tòa soạn đã nhận được nhiều ý kiến của các chuyên gia, trong đó nhấn mạnh những nguyên nhân hiện hữu là những rủi ro về chính sách đối với lĩnh vực điện gió. ĐTTC tiếp tục có bài phản ánh vấn đề này.
DN “tiến thoái lưỡng nan”
Hưởng ứng chủ trương phát triển NLTT theo Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, và triển khai thực hiện Quyết định 39/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay có 106 dự án điện gió với tổng công suất 5.655,5MW đã được các DN đăng ký.
Để khuyến khích, cơ quan quản lý tạo cơ chế giá ưu đãi (FIT), với điều kiện dự án phải vận hành thương mại (COD) trước ngày 31-10-2021.
Bởi lẽ với mức giá FIT áp dụng cho điện sản xuất từ các nguồn NLTT để bán lên lưới hoặc sử dụng tại chỗ nhằm giảm tải cho lưới điện, cũng như đảm bảo NĐT có lợi nhuận. Đây là cơ chế được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng để kích thích các DN đầu tư vào NLTT, từng bước giảm sự phụ thuộc và các nhà máy điện truyền thống đang tác động tiêu cực đến môi trường và gây biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, qua “thời điểm vàng” trên, chỉ có 69 dự án với tổng công suất 3.298,95MW được công nhận COD. Nguyên nhân chủ quan có, khách quan có, nhưng dịch bệnh Covid-19 là điều được nhắc tới nhiều nhất.
Tiêu biểu là trường hợp của CTCP Điện gió Hanbaram được thể hiện trong văn bản gửi Thủ tướng và các bộ ngành liên quan cách đây ít lâu. Dự án điện gió được triển khai tại Ninh Thuận dự kiến hoàn thành thi công, lắp đặt và kết nối 29/29 trụ tuabin, hoàn thành toàn bộ đường dây, trạm biến áp đấu nối lên hệ thống lưới điện quốc gia, đang thử nghiệm kỹ thuật toàn bộ và COD các trụ tuabin vào thời điểm 31-10-2021.
Đơn vị này đã huy động tổng lực sức người, sức của để thực hiện dự án theo tiến độ đề ra, nhưng dịch Covid-19 đã làm đảo lộn mọi việc.
Đảng và Chính phủ đã xác định điện gió là ngành then chốt đối với an ninh năng lượng và giảm thải carbon. Vì thế, các bộ, ngành cần thể hiện vai trò của mình, đối thoại và cùng DN tháo gỡ khó khăn, không thể để các dự án điện gió đã đầu tư hàng chục tỷ USD đứng trước nguy cơ “bay theo gió”. |
Quá trình đưa chuyên gia từ nước ngoài sang Việt Nam cũng rất phức tạp do các quy định phòng chống dịch ngặt nghèo ở nhiều nơi, khiến thời gian tăng từ 6 tuần lên đến 10 tuần.
Do lý do “bất khả kháng” này, tới mốc 31-10-2021, chỉ có 6/29 trụ điện gió kịp COD để hưởng giá FIT ưu đãi, 23 trụ còn lại dù đã hoàn thiện nhưng chưa kịp COD nên không được hưởng giá ưu đãi. Đáng nói, từ đó đến nay các dự án này cũng không thể COD tiếp vì ngành điện chưa có hướng dẫn về giá mua.
Cùng lâm vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”, CTCP Đầu tư và Phát triển Phong điện Gia Lai đã hoàn thành thi công, lắp đặt và kết nối 25/25 trụ tuabin cùng nhiều hạng mục, đang thử nghiệm kỹ thuật để đi vào vận hành, nhưng do tác động của đại dịch chỉ 1/25 trụ điện gió kịp COD.
Hay Công ty Điện gió Sunpro Bến Tre đã rót vốn vào dự án 56 triệu USD (tương đương 1.270 tỷ đồng), dù nỗ lực chạy đua tiến độ chỉ hoàn thành được 75%. Nhiều tháng giãn cách khiến việc thi công bị gián đoạn, chuyên gia, công nhân ra vào nhà máy khó khăn; mua bán và vận chuyển vật tư cũng tắc đường; việc giải phóng mặt bằng đình trệ khi công ty không thể gặp người dân để thương lượng…
Hiện hàng chục DN đầu tư lĩnh vực NLTT đang kêu cứu lên Chính phủ và các ngành chức năng về nguy cơ phá sản khi nguồn thu chưa có, trong khi phải gánh áp lực trả nợ từ các khoản vay từ tổ chức tín dụng. Chưa kể, dịch bệnh làm phát sinh chi phí như giá cước vận tải tăng, phí lưu kho bãi tăng, các chi phí cách ly, 3 tại chỗ, xét nghiệm cho lực lượng nhân sự tăng và nhiều khoản chi phí khác… cũng làm NĐT hết sức đau đầu.
Điều đáng nói, DN đồng hành cùng với chủ trương chính sách của Chính phủ nhưng có cảm giá bị bỏ rơi. Đại diện nhà máy Điện gió Sunpro Bến Tre và nhiều DN khác như Công ty Điện gió Hòa Đông 2, Công ty Điện gió Lạc Hòa 2 ở Sóc Trăng, cho biết đầu tư vào dự án cả ngàn tỷ đồng, giờ tiền nằm chết ở đó, sẽ phá sản nếu không được Chính phủ ban hành chính sách hợp lý, kịp thời.
Nguy cơ cho DN và ngân hàng
Nguy cơ cho DN và ngân hàng
Theo thống kê chưa chính thức, khoảng 4.185MW điện NLTT theo đăng ký đã không đạt được tiến độ COD trước 1-11-2021. Với tổng mức đầu tư khoảng 202.794 tỷ đồng (khoảng 8,8 tỷ USD, tương đương 3,2% GDP Việt Nam năm 2020), trong đó vốn chủ sở hữu 60.892 tỷ đồng, vốn vay ngân hàng dự kiến 142.082 tỷ đồng.
Tới thời điểm hiện tại, các ngân hàng đã giải ngân được khoảng 40% tổng mức đầu tư của các dự án nêu trên, tương đương 81.190 tỷ đồng.
Với lãi suất vay thương mại trung bình 10%/năm, hiện các NĐT đang phải trả lãi hàng năm 8.119 tỷ đồng (số giải ngân), trong khi không có doanh thu hoặc chỉ nhận được một phần doanh thu trên tổng công suất quy hoạch.
Điều này tiềm ẩn nguy cơ rủi ro nợ xấu cao cho hệ thống ngân hàng đối với khoản nợ trên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng tiền lưu thông của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư cũng đã bỏ ra hàng trăm tỷ đồng cho mỗi dự án để đóng thuế nhập khẩu, thuế này sẽ không được hoàn lại nếu không có Giấy phép hoạt động điện lực (chỉ có sau khi có chứng chỉ COD).
Mặt khác, do không đạt được giá FIT, chưa có cơ chế giá quan hệ hợp đồng giữa các chủ đầu tư và nhà thầu, cũng thực sự là vấn đề có thể phát sinh khiếu kiện do không thể nghiệm thu, không thể thanh toán.
Trước sức ép của các NĐT, Bộ Công Thương và các bên liên quan đã họp và dự kiến đưa ra giá mua điện từ các nhà máy điện gió từ sau 31-10-2021 giảm khoảng 12% so với giá FIT theo Quyết định 39. Tuy nhiên, nhiều chủ đầu tư cho rằng mức giá này chưa nói rõ mức giảm căn cứ vào đâu, bởi nếu áp dụng mức giảm 12%, gần 40 dự án triển khai trong các năm vừa qua sẽ thua lỗ trầm trọng, thậm chí mất trắng lợi nhuận.
Chưa kể áp dụng mức giảm nào cũng cần có tiến độ công bố và thực hiện, bởi chậm ngày nào DN không có đầu ra ngày đó, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tiền để trả nợ.
Cần sớm có chính sách
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Giám đốc Trung tâm Năng lượng (Viện Năng lượng), phát triển điện gió ở Việt Nam đang ở giai đoạn "chạy đà". Để đến được giai đoạn cất cánh 5 năm tới là quãng đường dài.
"Để điện gió cất cánh được, cần hàng loạt chính sách phát triển phù hợp, như chuỗi cung ứng, cơ chế tài chính, công nghệ... Cơ chế chính sách hỗ trợ cho điện gió cũng cần ổn định, bền vững và ít thay đổi" - ông Tuấn nói, và cho rằng DN đã đồng hành cùng chủ trương của Chính phủ trong công cuộc mở rộng NLTT, hạn chế các hình thức sản xuất điện tác động xấu đến môi trường, nhưng liên tục bị các “cú sốc” ngay khi vừa mới bắt đầu.
Vì thế, cần có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa NĐT và cơ quan quản lý, hoạch định chính sách. Theo đó, các nhà quản lý nắm tình hình, đề xuất các biện pháp như gia hạn cơ chế ưu đãi hoặc có chính sách nối tiếp để tạo an tâm cho NĐT.
Hiện nhiều nước đã có chính sách "giải cứu" DN và chủ đầu tư điện gió khi họ gặp phải những khó khăn do nguyên nhân bất khả kháng - dịch Covid-19 gây ra. Chẳng hạn, tháng 5-2020, Chính phủ Đức thông qua đạo luật Bảo vệ quy hoạch, cho phép các dự án NLTT có hạn COD trước hoặc vào ngày 30-6-2020 được hưởng gia hạn thêm 6 tháng.
Hay tại Mỹ, tháng 5-2020 Bộ Tài chính có hướng dẫn kéo dài thời hạn hưởng tín dụng thuế thêm 1 năm cho các dự án điện gió trên bờ và điện mặt trời khởi công năm 2016 và 2017, để hoàn thành dự án và nhận ưu đãi từ chính sách tín dụng thuế sản xuất.
Tại hội nghị COP26, tầm nhìn của lãnh đạo quốc gia về biến đổi khí hậu đã được thể hiện qua bài phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính trước các nhà lãnh đạo toàn thế giới: “Việt Nam có lợi thế về NLTT, sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình”.
Nói như vậy để thấy, vai trò rất quan trọng của điện gió trong công cuộc thay đổi của năng lượng quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng lượng.
DN đồng hành cùng với chủ trương chính sách của Chính phủ nhưng có cảm giác bị bỏ rơi. Nhiều nhà máy như Điện gió Sunpro Bến Tre, Công ty Điện gió Hòa Đông 2, Công ty Điện gió Lạc Hòa 2 ở Sóc Trăng đầu tư vào dự án cả ngàn tỷ đồng, giờ tiền nằm chết ở đó, sẽ phá sản nếu không được Chính phủ ban hành chính sách hợp lý, kịp thời. |