Trong tâm thức dân gian xứ Thanh, Vua Bà vẫn luôn hiện diện phù hộ cho muôn dân, với 3 đền thờ linh thiêng, trong đó Lễ hội Đền Bà Triệu ở huyện Hậu Lộc mới được Nhà nước công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tháng 3-2023.
Triệu Thị Trinh sinh ngày 2-10 năm Bính Ngọ - 226, tại vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, trong một gia đình hào trưởng. Tương truyền, cô gái họ Triệu có tướng mạo kỳ lạ, người cao lớn, dung nhan xinh đẹp, say mê học võ nghệ, sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha hỏi sau này lớn lên sẽ làm gì, cô trả lời con sẽ nối gót bà Trưng Trắc, Trưng Nhị đi đánh giặc ngoại xâm.
Bấy giờ ở vùng núi Quan Yên quê nhà xuất hiện con voi trắng một ngà rất hung dữ phá phách làng xóm ruộng nương. Thấy voi ai cũng sợ. Triệu Thị Trinh xin cha mời họp dân làng, bày mưu tính kế lừa voi xuống một đầm lầy, đích thân bà nhảy lên đầu voi dùng búa khuất phục con thú hung hãn. Và từ đó voi trắng trở thành người bạn thân thiết, trung thành của bà trên mọi ngả đường chinh chiến.
Nhà Đông Ngô của Tôn Quyền từ Trung Quốc sang cướp nước ta, đặt ách cai trị hà khắc, bòn rút của cải sản vật quý giá, cưỡng bức dân ta làm nô lệ. Triệu Thị Trinh và anh trai Triệu Quốc Đạt vô cùng căm giận lũ giặc bạo tàn, nuôi chí đánh đuổi ngoại xâm cứu dân cứu nước. Vì nghiệp lớn, cô gái họ Triệu quyết hy sinh hạnh phúc riêng, nên khi có người thân khuyên lấy chồng bà nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.
Sau một thời gian bí mật vận động, chuẩn bị lực lượng, tích trữ lương thảo, anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh cùng nghĩa quân rời quê nhà Quan Yên, vượt sông Chu đến vùng núi Nưa, nơi có vị thế vô cùng hiểm yếu (nay nằm ở địa phận 2 huyện Nông Cống và Triệu Sơn) để lập căn cứ, chiêu mộ thêm binh lực, luyện tập võ nghệ, triển khai binh pháp, mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng, dựng cờ khởi nghĩa.
Đó là năm 248, lúc bà mới 19 tuổi. Hịch cứu nước được ban truyền khắp nơi kể tội giặc ngoại xâm và kêu gọi tinh thần của nhân dân. Khắp quận Cửu Chân ai cũng nhiệt liệt hưởng ứng, tình nguyện tham gia dưới ngọn cờ của anh em họ Triệu. Khởi binh, từ căn cứ Ngàn Nưa nghĩa quân đã tấn công chiếm thành Tư Phố. Nhanh chóng giành chiến thắng, nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền xây dựng thêm căn cứ địa, vì địa hình tự nhiên nơi đây thuận lợi cho thế “công” lẫn “thủ”.
Từ căn cứ Bồ Điền (nay là làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc) có thể chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù để khống chế địch, đồng thời dễ dàng ngược sông Lèn, sông Âu ra sông Mã lên vùng núi quê nhà Quan Yên, hay khi cần thì rút về lại căn cứ Ngàn Nưa. Ba anh em họ Lý là Lý Hoằng Công, Lý Mỹ Công và Lý Thành Công là tướng thuộc quyền đã giúp họ Triệu chỉ huy xây dựng ở Bồ Điền hệ thống đồn lũy vững chắc để phòng ngự.
Triệu Quốc Đạt lâm bệnh mất ở căn cứ Bồ Điền. Nghĩa quân tôn Triệu Thị Trinh làm thủ lĩnh toàn quyền, với danh xưng Nhụy Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều như nhụy hoa). Ra trận, bà thường đi guốc ngà, mặc áo giáp vàng, chít khǎn vàng, cưỡi voi trắng oai phong lẫm liệt. Kẻ thù nhìn thấy bà là khiếp vía. Tương truyền trong quân Đông Ngô có câu: “Hoành qua đương hổ dị/ Đối diện Bà vương nan” (Múa giáo đánh cọp dễ/ Đối mặt Vua Bà thì thực khó).
Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu ngày càng lớn mạnh, từ Cửu Chân đến Giao Chỉ và lan nhanh khắp các quận còn lại. Các thành lũy lần lượt bị hạ. Thứ sử Giao Châu bị giết. Trước tình hình nguy cấp, Tôn Quyền vua Đông Ngô liền cử viên tướng giỏi Lục Dận, cháu của danh tướng Lục Tốn, sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, mang theo 8.000 quân để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
Lục Dận có nhiều kinh nghiệm trận mạc, quân số áp đảo, lại lắm âm mưu thâm độc. Hắn dùng của cải mua chuộc một số thủ tĩnh địa phương để chia rẽ lực lượng, rồi tập trung quân bao vây tấn công quận Cửu Chân. Tại căn cứ Bồ Điền và trên sông Lèn, sông Âu đã diễn ra nhiều trận kịch chiến. Mặc dù dũng cảm chống trả nhưng do yếu thế trước sức mạnh tấn công của kẻ thù, cuối cùng căn cứ Bồ Điền bị tàn phá, nghĩa quân tan vỡ.
Ngày 22-2 năm Mậu Thìn - 248, Bà Triệu lên núi Tùng bên dòng sông Âu, quỳ xuống vái trời đất rằng "Sinh vi tướng, tử vi thần" (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn lúc mới 23 tuổi. Ba vị tướng anh em họ Lý đã tìm thấy thi thể và lo chu toàn mộ phần nữ chủ soái trên đỉnh núi. Sức cùng lực kiệt, cả ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn khí tiết, lời thề trung thành với Vua Bà.
Ở Thanh Hóa hiện có 3 đền thờ Bà Triệu ở các huyện Yên Định, Triệu Sơn và Hậu Lộc. Riêng đền thờ Bà Triệu ở thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc gắn liền với nơi Vua Bà quyên sinh vì nước. Ngoài những nét kiến trúc độc đáo, đền Bà Triệu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm cùng kho tàng các sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, thơ ca, câu đối...
Vào năm 2014, Khu Di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật đền Bà Triệu ở Hậu Lộc được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt. Và sáng 11-3-2023, tại Lễ kỷ niệm 1.775 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, lại được đón nhận danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho Lễ hội đền Bà Triệu. Dịp này, đông đảo du khách đã tìm về chiêm bái, tưởng nhớ Vua Bà và chứng kiến một trong những nghi thức long trọng và quan trọng bậc nhất của di sản này: Lễ rước kiệu hay còn gọi là rước bóng. Đây là nghi lễ đặc sắc thể hiện rõ nhất “tính thiêng” hay quan niệm dân gian về sức mạnh của vị Thần đã được các triều đại phong kiến suy tôn và thờ phụng.