Cụ thể, trong 7 tháng vừa qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng NLTS ước đạt khoảng 58,3 tỷ USD, tăng 7,2% so với 7 tháng năm 2021; trong đó xuất khẩu (XK) đạt khoảng 32,3 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu (NK) ước khoảng 26,0 tỷ USD, tăng 1,6%; xuất siêu gần 6,3 tỷ USD, tăng gần 2 lần so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 7, kim ngạch XK ước khoảng 4,8 tỷ USD, tăng 10,4% so với tháng 7-2021, giảm 2,0% so với tháng 6/2022; trong đó, giá trị XK nhóm nông sản chính gần 2,0 tỷ USD, lâm sản chính ước trên 1,4 tỷ USD, thủy sản đạt 965 triệu USD và chăn nuôi đạt 42,1 triệu USD,…
Tính chung 7 tháng đầu năm, kim ngạch XK nông lâm thủy sản ước gần 32,3 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, XK nhóm nông sản chính đạt 13,3 tỷ USD, tăng 8,4%; lâm sản chính đạt trên 10,4 tỷ USD, tăng 1,3%; thủy sản ước đạt gần 6,7 tỷ USD, tăng 34,2%; chăn nuôi ước đạt 225,6 triệu USD, giảm 11,6%; XK đầu vào sản xuất gần 1,7 tỷ USD, tăng 66,7%.
7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã đạt kết quả khả quan.
7 tháng đầu năm nay, có 4 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị XK đạt trên 2 tỷ USD (cà phê, gạo, tôm, sản phẩm gỗ).
Những mặt hàng giảm gồm: nhóm hàng rau quả đạt trên 1,9 tỷ USD (giảm 16,1%), hạt điều ước đạt gần 1,8 tỷ USD (giảm 10,4%), sản phẩm chăn nuôi đạt 225,6 triệu USD (giảm 11,6%); dù giá trị XK nhóm gỗ và SP gỗ tăng 1,2% nhưng giá trị XK của sản phẩm gỗ lại giảm 6,9% với giá trị trên 6,9 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu trong 7 tháng, ước giá trị XK nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á (chiếm 42,4% thị phần), châu Mỹ (29,3%), châu Âu (11,9%), châu Đại Dương (1,7%) và châu Phi (1,6%).
Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt gần 8,7 tỷ USD (chiếm 26,8% thị phần); đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc trên 5,7 tỷ USD (chiếm 17,8% thị phần); thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị XK đạt trên 2,3 tỷ USD (chiếm 7,2%); thứ tư là thị trường Hàn Quốc với giá trị XK đạt trên 1,5 tỷ USD (chiếm 4,7%).