Nghịch lý lỗ - lãi của Petrolimex

Hiếm có nơi nào trên thế giới, cả những nước chủ yếu sống bằng việc khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, giá xăng dầu lại chứa nhiều ẩn số và nghịch lý như ở Việt Nam. Mỗi khi giá xăng dầu tăng, đều trực tiếp và gián tiếp khởi động một vòng xoáy lạm phát đan xen. Rõ ràng giá xăng dầu phản ánh sự minh bạch cũng như lành mạnh trong cơ chế thị trường của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi; uy tín cũng như hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.

Hiếm có nơi nào trên thế giới, cả những nước chủ yếu sống bằng việc khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, giá xăng dầu lại chứa nhiều ẩn số và nghịch lý như ở Việt Nam. Mỗi khi giá xăng dầu tăng, đều trực tiếp và gián tiếp khởi động một vòng xoáy lạm phát đan xen. Rõ ràng giá xăng dầu phản ánh sự minh bạch cũng như lành mạnh trong cơ chế thị trường của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi; uy tín cũng như hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước.

Vẫn còn độc quyền

 Gần đây, dư luận xã hội lại được dịp bàn luận rôm rả về nghịch lý của Petrolimex: Kêu lỗ và đòi Nhà nước bù lỗ hàng ngàn tỷ đồng khi cần giữ hoặc tăng giá xăng dầu, và tự khoe lãi cũng tới cả ngàn tỷ đồng khi cần đánh bóng tên tuổi chuẩn bị cho đợt chào bán chứng khoán sắp tới… Cụ thể, năm 2008, Petrolimex (kinh doanh xăng dầu chiếm 84% tổng doanh thu của tập đoàn này) kêu lỗ cả chục nghìn tỷ đồng, nhưng trong báo cáo tài chính chuẩn bị cho kế hoạch IPO thì năm 2008 lãi trên 913 tỷ đồng; năm 2009 lãi tiếp 2.880 tỷ đồng; năm 2010 lãi 81,1 tỷ đồng và dự kiến trong năm 2011 là 2.154 tỷ đồng.

Giá xăng dầu chứa nhiều ẩn số và nghịch lý.

Giá xăng dầu chứa nhiều ẩn số và nghịch lý.

Không bàn tới sự chính xác của các con số đang chờ giải trình và kiểm toán, cũng như “mẹo kỹ thuật” phù phép bằng  nghiệp vụ kế toán siêu đẳng nếu có, ở đây thử tìm hiểu căn nguyên sâu xa đằng sau những tuyên bố lỗ-lãi đầy nghịch lý như vậy.

Thực tế, cho đến nay giá xăng dầu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn mang tính thị trường, do chưa có cơ chế cạnh tranh thị trường đầy đủ, cả về bán buôn và bán lẻ. Về cơ bản và tổng thể, Nhà nước vẫn đang khống chế xuất nhập khẩu xăng và giá bán lẻ xăng dầu, nên dù ít nhiều có sự phân quyền quản lý giữa các đơn vị chủ quản và một số đầu mối nhập khẩu xăng dầu truyền thống độc quyền.

Hơn nữa, đang có sự đan xen giữa nhiệm vụ ổn định kinh tế với nhiệm vụ kinh doanh của ngành xăng dầu. Chính vì thế đã có lúc người ta thấy có sự vận dụng ngược trình tự quy luật thị trường, tức chủ trương cho phép các doanh nghiệp độc quyền được định giá xăng dầu theo giá thị trường thế giới, mà không phải cạnh tranh thị trường; trong khi cần làm ngược lại là cho cạnh tranh thị trường đầy đủ và lành mạnh trước khi tự do hóa giá cả thị trường, tránh gây độc quyền doanh nghiệp và tạo cơ hội thu lợi nhuận độc quyền kép cho doanh nghiệp độc quyền.

Sau Quyết định 187, Nghị định 54 và Nghị định 55/2007/NĐ-CP là Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu có hiệu lực từ ngày 15-12-2009. Theo đó, doanh nghiệp có quyền tăng giá xăng dầu cứ 10 ngày/lần nếu tăng dưới 7% rồi báo cáo sau, tăng từ 7-12% doanh nghiệp được quyền tăng giá bán lẻ 7%, cộng thêm 60% của mức tăng từ 7- 2%. Khoản lỗ 40% còn lại, doanh nghiệp sẽ được quyền sử dụng Quỹ bình ổn giá để bù đắp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính (chỉ được dùng quỹ bình ổn khi mức tăng giá trên 7%).

Trường hợp giá thế giới tăng trên 12%, giá xăng dầu trong nước hoàn toàn do Nhà nước quyết định. Nghị định ra đời được coi là bước tiến lớn trong việc quản lý thị trường xăng dầu khi cơ chế giám sát minh bạch hơn, tạo sự chủ động cao hơn cho doanh nghiệp theo cơ chế thị trường song không thể thiếu bàn tay hữu hình của Nhà nước.

Lách bằng cách xé nhỏ mức tăng

Tuy nhiên, gần đây cho thấy có sự thỏa hiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp độc quyền xăng dầu, khi khẳng định cơ chế mới về quản lý giá xăng dầu. Theo đó, chấp nhận mức giá hiện tại sau cú sốc tăng giá tháng 3-2011 như giá gốc để so sánh và cho phép doanh nghiệp chủ động tăng, giảm giá xăng dầu theo sát  động thái giá thị trường thế giới khi mức điều chỉnh không quá 5% giá gốc đó, còn nếu vượt mức trên thì làm phương án trình cơ quan chức năng nhà nước xem xét, phê duyệt… Đồng thời, giãn cách điều chỉnh không ngắn hơn 3 tháng/lần thay vì 10 ngày/lần như  quy định trong Nghị định 84.

Bất cập ở chỗ, doanh nghiệp dễ dàng xé nhỏ mức tăng giá dưới 5% như kiểu quản lý giá sữa mà người ta đã chứng kiến. Hơn nữa, chưa có cơ chế giám sát và chế tài buộc doanh nghiệp hạ giá khi giá thế giới giảm nhanh và sâu. Ngoài ra, điều khiến dư luận vẫn ấm ức và chưa thỏa mãn là chưa có kiểm toán giá xăng dầu, thậm chí chưa có cả việc minh bạch và công khai hóa các chỉ số thành phần giá xăng dầu.

Gần đây Petrolimex đã đưa cách tính giá xăng dầu lên Trang thông tin điện tử và Bộ Công Thương từ ngày 1-3-2011 đã đưa lên tờ tin Thị trường hàng ngày cách tính toán về giá cơ sở… giúp các nhà khoa học, quản lý biết rõ giá cơ sở tại từng thời điểm. Tuy nhiên, đây là mức giá cơ sở được tính trên quy định của Nghị định 84 và các yếu tố đầu vào do các cơ quan nhà nước ban hành, chứ không phải giá vốn của doanh nghiệp. Trong khi đó giá vốn có thể cao hơn hoặc thấp hơn xoay quanh giá cơ sở đó, phụ thuộc vào việc ký kết thỏa thuận với nhà cung cấp và thời điểm giao hàng.

Chính vì vậy cơ cấu giá xăng dầu này chưa phân biệt 2 loại hoạt động cho mục tiêu kinh doanh với mục tiêu “nhiệm vụ ổn định kinh tế” là ổn định giá và bảo đảm an ninh năng lượng. Đây là nguyên nhân lý giải cho điều khó giải thích nhất là dù giá lên hay xuống doanh nghiệp đầu mối nhập xăng dầu luôn kêu lỗ; cơ quan chức năng luôn chịu cảnh "trên đe dưới búa”; ngân sách nhà nước thất thu và người tiêu dùng cắn răng chịu đựng vì không còn lựa chọn nào khác.

Phải chăng tất cả lợi lộc độc quyền xăng dầu đều rơi vào túi các đại lý dù là tính chất nhà nước hay tư nhân. Theo Bộ Công Thương, Tổng công ty Dầu Việt Nam- (PVOil) hiện chiếm 25%, Saigon Petro chiếm 8%, còn Petrolimex chiếm khoảng 55% thị trường xăng dầu cả nước; trong đó 30% thị phần của Petrolimex là bán buôn cho các doanh nghiệp, khoảng trên 25% tự bán thông qua hệ thống 1.995 cây xăng của mình (chiếm khoảng gần 20% trong tổng số 10.000 cây xăng trên toàn quốc).

Rõ ràng, một cơ chế giá xăng dầu còn nhiều lúng túng và rối, vừa muốn có giá cả thị trường trong cơ chế không có cạnh tranh thị trường, vừa có sự nhập nhằng giữa hoạt động kinh doanh với hoạt động vì mục tiêu ổn định kinh tế. Tất yếu không chỉ là tác nhân làm méo mó giá cả, đe dọa lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, mà còn gây cảnh “đục nước béo cò”, giảm sức hút của môi trường đầu tư và làm chậm lại quá trình đột phá thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Các tin khác