Thi sĩ Baudelaire Việt Nam
Hà Nội những ngày cuối thu nắng vàng mật vẫn vương vất. Một không gian đẹp đến mơ màng. Đẹp như không khí thơ hoài cổ “Ông đồ”. Ngày 12-11 vừa qua chính là kỷ niệm 110 năm ngày sinh Vũ Đình Liên (1913-2023), dù ít ai còn nhớ nhưng tôi vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng ông đâu đây ở Hà thành. “Ông đồ hiện đại” là danh xưng sinh thời bậc tiền bối Vũ Đình Liên tự nhận. Nếu như ông đồ trong bài thơ “ông đồ” nổi tiếng là hình ảnh tượng trưng “Những người muôn năm cũ” của Nho học thì bản thân tác giả lại là “ông đồ hiện đại” Tây học.
Vũ Đình Liên quê gốc ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Hà Nội ngày 12-11-1913 trong một gia đình làm thợ kim hoàn ở phố Hàng Bạc. Sau khi đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932, ông vừa học đại học luật vừa đi dạy học kiếm sống tại các trường tư thục. Đồng thời, ông cũng bắt đầu sáng tác, viết cho báo Phong Hóa của Đoàn Phú Tứ cùng một số báo khác. Rồi tự đứng ra mở báo Tinh Hoa, mời nhiều cây bút tên tuổi đương thời cộng tác.
Sáng tác trước bài thơ “Ông đồ” gần 10 năm, “Hồn xưa” là bài thơ đầu tiên của Vũ Đình Liên viết năm 1927. Một bài thơ cũng mang tinh thần hoài cổ, là của riêng ông một thời mộng mơ, chập chững bước vào “nghiệp” thơ đầy say mê: “Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay/Như khêu gợi nỗi niềm thương tiếc/Những cảnh và những người đã chết/Tự bao giờ mà nay biết tìm đâu/Những cảnh xưa rực rỡ đến trăm màu/Mà êm ả, mà tưng bừng, mà bé nhỏ/Đẹp như bức tranh hay, như bài thơ cổ/Những ngày xưa yên lặng nhẹ nhàng”.
Đối với Vũ Đình Liên, nếu như làm thơ là cái nghiệp cả đời thì dạy học là cái nghề. Đến sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông vẫn tiếp tục dạy học và soạn sách giáo khoa, làm Chủ nhiệm Khoa tiếng Pháp, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Cùng các học giả và là những giáo sư nổi tiếng như Lê Thước, Lê Trí Viễn, Trương Chính...
Vũ Đình Liên là thành viên tích cực của nhóm văn học Lê Quý Đôn, có nhiều đóng góp về nghiên cứu, dịch thuật. 2 công trình nghiên cứu văn học đáng chú ý của Vũ Đình Liên là “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam” và “Nguyễn Đình Chiểu” cùng hoàn thành từ năm 1957. Ông còn dịch nhiều thơ nước ngoài, nhất là thơ Pháp mà thi sĩ ông tỏ ra tâm đắc là Charles Baudelaire (1821-1867), nên ông còn có biệt danh “Baudelaire Việt Nam”.
Nhà giáo nhân hậu khả kính
Nhà thơ Vũ Đình Liên chia sẻ: “Tôi viết bài thơ ông đồ suốt 2 cái tết năm 1935-1936 mới xong và đăng trên báo Tinh Hoa. Tôi đi theo con đường riêng của tôi. Vào năm 1936, khi bài thơ trình làng, bạn bè văn chương bảo rằng tôi đã tìm được con đường riêng, chứ không phải đi theo con đường tiên, thế giới bồng lai của Thế Lữ.
Con đường của tôi là tình thương của mọi người. Con đường tôi tìm gọi là mới ấy, thực ra lại là con đường truyền thống của dân tộc, cái mới trong cái cũ. Cho nên, bạn bè viết giới thiệu trên báo chí là nhà thơ của người nghèo, nhà thơ của nông dân, nhà thơ của tình thương”.
Nhà giáo nhân dân, nhà thơ Vũ Đình Liên (1913-1996). |
Nhà giáo nhân dân, nhà thơ Vũ Đình Liên tâm sự khi lần đầu tiên chúng tôi đến thăm ông trên gác Hương Lửa nằm ở góc phố Trần Nhân Tôn với Bà Triệu của Hà Nội vào mùa hè năm 1994. Ông còn cho biết bài thơ “ông đồ” được dịch hơn 10 thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Đức, Nga, Thụy Điển, Ả Rập, Đan Mạch...
Có một tờ báo châu Phi, số đặc biệt, cùng lúc in bài “ông đồ” thành 3 thứ tiếng: Anh, Pháp, Ả Rập. Riêng tiếng Pháp, bài thơ “Ông đồ” có 3 người dịch. Và người dịch đầu tiên là một phóng viên thường trú báo Nhân Đạo của Pháp tại Hà Nội.
Theo nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ, ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là gác Lưu Xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ: nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là “Lầu Tình bạn” hay “Bảo tàng Lưu - Liên - Phái”.
Tại gác Hương Lửa, tôi được xem những hình ảnh, kỷ vật đẹp về tình nghệ sĩ thân thiết của 3 người, như thơ ông viết: “Thiên thần nghệ thuật là chuyên nghiệp/Đốt trái tim trầm gửi gió hương”. Đồng thời, tôi cũng tìm thấy nghĩa thầy trò cao quý qua những dòng thư, kỷ vật của ông dành cho các bậc thầy của mình và các thế hệ học trò dành cho Nhà giáo nhân dân Vũ Đình Liên, điều mà không phải ai tay bút, tay phấn suốt đời trên bục giảng nào cũng có được. Nhà giáo nhân dân, nhà thơ Vũ Đình Liên còn tâm sự rằng, lịch sử Việt Nam và thế giới cho thấy nhiều nhà thơ đồng thời là nhà giáo.
Tình nhân ái trong thơ họ hết sức sâu sắc, cao đẹp. Nhà thơ - thầy giáo lớn của dân tộc là Nguyễn Trãi đã viết: “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn sóng triều Đông”. “Tôi đi đâu cũng nghe người ta bảo, không có nhà thơ nào trên thế giới nói tình nhân ái bằng hình tượng “sóng triều đông” độc đáo như Nguyễn Trãi. Cho nên tôi dựa vào đó diễn ra ý của tôi là “sư đạo ưu ái” trong tập Nghệ thuật, tình thương và tình bạn. Nếu tôi là thầy giáo không làm thơ thì chỉ là “sư đạo” mà thôi”.
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp Vũ Đình Liên, một nhân cách thơ, một nhà giáo nhân hậu khả kính, rất đáng để hậu thế chiêm nghiệm. Tôi yêu quý Vũ Đình Liên vì sự lặng lẽ, khiêm tốn, cô độc trong thơ và trong con-người-thơ mang tính sư phạm hòa lẫn nghệ sĩ hết mình của ông. Hết mình tới hơi thở cuối cùng.
Vào ngày 18-1-1996, giữa lúc đất trời đang chuyển mình vào xuân “ông đồ hiện đại” Vũ Đình Liên đã vĩnh viễn ra đi. Thi sĩ, Nhà giáo Nhân dân Vũ Đình Liên đã hóa thân vào hư vô nhưng tên tuổi ông cùng bài thơ “Ông đồ” bất tử: “Mỗi năm hoa đào nở/Lại thấy ông đồ già/Bày mực tàu giấy đỏ/Trên phố đông người qua”.