Đầu thập niên 60 của thế kỷ 20, thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng về Cách mạng miền Nam, tạp chí VNQĐ đã được Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ quan trọng là lựa chọn, bồi dưỡng những cây bút có khả năng và điều kiện ra chiến trường - đi B. Sau chuyến đi của nhà văn Thanh Giang, nhà thơ Thu Bồn... là chuyến đi của Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi, nhà văn, liệt sĩ, Anh hùng LLVTND), Nguyên Ngọc...
Đây là những nhà văn đi B đầu tiên. Tiếp đó, lần lượt là những chuyến đi B dài của Văn Phác, Nam Hà (Trúc Hà), Nguyễn Trọng Oánh (Nguyễn Thành Vân), Lưu Trùng Dương… từ ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế.
Theo lời kể của tướng Trần Văn Phác, năm 1964, lúc đang làm Tổng biên tập Tạp chí VNQĐ và phụ trách báo QĐND, ông được cấp trên cử đi chiến trường Nam bộ, đi bí mật bằng đường biển (từ bãi biển Đồ Sơn, Hải Phòng vào thẳng cửa sông Cổ Chiên thuộc tỉnh Trà Vinh).
Tạp chí VNQĐ năm 1958, khi còn đông đủ Thanh Tịnh (hàng ngồi, bìa phải), Nguyễn Thi (hàng đứng trên cùng, thứ 3 từ phải sang), Nguyễn Trọng Oánh (hàng ngồi, thứ 3, trừ trái sang)…
Trong hồi ức có tên “Thời cầm súng, cầm bút”, nhà văn Thanh Giang nhớ lại: “Bất ngờ Tổng cục Chính trị quân đội gọi tôi từ Sư đoàn 330 về học lớp bổ túc cán bộ tuyên huấn. Sau khi mãn lớp tuyên huấn, số anh em bạn viết chúng tôi (trong đó có Thu Bồn) được đưa về ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, để “bồi dưỡng” kinh nghiệm viết văn, làm báo với các anh nhà văn quân đội.
Xong phần nghiệp vụ, Chủ nhiệm tạp chí VNQĐ Văn Phác “làm công tác tư tưởng” về ý chí và vai trò, trách nhiệm đối với chiến trường miền Nam đang yêu cầu... Khuya 22-12-1961, đoàn chúng tôi lên xe phủ vải bạt bít bùng, rời Hà Nội thân yêu”.
Nhớ về những ngày làm tờ Văn nghệ Quân Giải phóng miền Nam (VNQGP), nhà văn Thanh Giang viết: “Tháng 8-1962, tại khu rừng Bời Lời (tỉnh Tây Ninh), tạp chí ra số đầu tiên. Nguồn “nhân tài” của lực lượng viết văn từ miền Bắc điều vào, nhất là từ các trại viết văn do tạp chí tổ chức. Nhà văn Nguyễn Thi phụ trách tạp chí đã cùng với các nhà văn tổ chức nhiều trại viết để bồi dưỡng các cây bút trẻ”.
Trên trang cá nhân của mình, trong bài “Nhớ về một trại viết thời chiến tranh”, nhà văn Hào Vũ viết: “Vào năm 1972, từ chiến trường Long An tôi được gọi lên rừng miền Đông, lúc ấy gọi là “R”, dự trại. Lần thứ 2 là vào năm 1974. Cũng vẫn tại địa điểm cũ, trong rừng. Một lán lớn mái lợp lá trung quân, là nhà bếp, nhà ăn của anh em trong tạp chí, cũng là của các trại viên mỗi khi dự trại.
Xung quanh là những cái lán nhỏ mái lợp lá trung quân, không vách, không giường, chỉ có cột giăng võng, thường là 2 chiếc cho 2 người. Ở khoảng trống giữa 2 chiếc võng là cái bàn nhỏ, mặt bàn là những thân cây tròn nhỏ ghép lại, ghế ngồi cũng là thân cây ghép thành. Đó là nơi dành cho các trại viên nằm, ngồi để sáng tác”.
Một cuộc tiễn các nhà văn đi B, trước cổng nhà số 4, trụ sở tòa soạn Tạp chí VNQĐ, 1962.
Nhiều nhà văn có mặt trong các trại viết bấy giờ cho biết, dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng chương trình làm việc khá khoa học. Sau khi nộp đề cương hoặc bản thảo cho trại, các nhà văn Trần Ninh Hồ, Triệu Bôn... sẽ trao đổi trực tiếp với từng trại viên. Sau đó anh em sửa chữa, lại đọc tiếp, thấy được, cán bộ hướng dẫn sẽ nộp lên “thày” Nguyễn Trọng Oánh… Qua các trại viết, người viết về với VNQGP ngày thêm đông.
“Từ trại viết ấy, các trại viên trở về đơn vị, với những gì thu lượm được, tiếp tục học hỏi, sáng tác. Rồi hòa bình, nhiều người trong số họ vẫn say mê sáng tác, tự học thêm qua sách báo, qua đồng nghiệp, có người tu luyện tại Trường viết văn Nguyễn Du.
Nhiều người trở thành hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, góp phần xứng đáng của mình vào thành tựu chung của văn học nước nhà. Có thể kể ra đây những cái tên trưởng thành từ trại sáng tác như Văn Lê, Trần Mạnh Hảo, Lê Văn Vọng, Nguyễn Ngọc Mộc… Và tất cả chúng tôi, khi nhắc đến trại sáng tác ấy, lại rưng rưng nhớ về nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, người thầy, người đồng nghiệp, người anh tận tình, chu đáo” - nhà văn Hào Vũ nhớ về thủa ban đầu cầm bút.
Trở lại những trang hồi ức của nhà văn, thiếu tướng Bộ trưởng Văn Phác, ông kể: “Tết Ất Mão (1975), Cục Chính trị đón Tết trong rừng Lộc Ninh. Mai vàng nở khắp rừng. Bên mai vàng là phong lan với rất nhiều loài. Chưa bao giờ rừng chiến khu hoa phong lan lại nhiều thế. Anh em bộ đội lấy về buộc vào thân cây và cả cơ quan như một rừng lan. Vào các buổi trưa, hoa tỏa hương khắp nơi, vào tất cả phòng làm cho không khí thật xuân, thật Tết. Tết năm ấy lại có nhiều thịt thú rừng (dộc, cheo cheo) và gà lính ta nuôi nên thật là rôm rả, đậm đà. Ai cũng nghĩ xuân này, Tết này sẽ có những niềm vui lớn…”.
Trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975 lịch sử, Văn Phác là Chính ủy Sư đoàn 232 có mặt trong cánh quân vào giải phóng Sài Gòn. Đất nước hòa bình thống nhất, ông được phong hàm cấp tướng và giữ trọng trách Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐNDVN. Gắn bó gần 40 năm với đời lính, ông hiểu về bi kịch của chiến tranh và niềm hạnh phúc của hòa bình.
Trong bút ký “Một mùa xuân rực rỡ”, ông đã dành những dòng cuối cùng cho... nước mắt: “Thì ra chị mong quá mà khóc đấy thôi. Nước mắt của chị làm tôi bỗng chạnh lòng. Nước mắt làm nhẹ những buồn đau mất mát trong chiến tranh”. Và ông còn dành riêng tình cảm mình cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, người ông đã từng là thư ký riêng suốt những năm ở R: “Thế mà đến nay, nhân dân ta đã đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, tới ngày anh có thể đi thăm khắp miền Nam yêu quý thì anh không còn nữa... Nước mắt tôi bỗng trào ra không thể kìm lại được”.
Nhớ về tháng Tư năm 1975, nhớ về những mùa xuân chưa xa, lúc ông mới nghỉ hưu, tôi có một đôi lần ghé nhà ông ở 16A cùng “phố nhà binh” chỗ VNQĐ đặt trụ sở. Và tháng Tư nào, Tết xuân nào cũng thấy trong phòng ông có chậu mai vàng bên đòn bánh tét. Ông bảo để mãi mãi nhớ về những năm tháng chưa xa, để nhớ về anh em đồng đội một thời sống và viết.