Chiều qua (18-6), Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi). Đa số ĐB đồng tình với quy định về việc mở rộng đối tượng kinh doanh bất động sản (BĐS) là tổ chức, cá nhân Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề về vốn pháp định với hoạt động kinh doanh lĩnh vực này cũng có những quan điểm khác nhau.
Mở rộng có điều kiện
![]() |
Theo dự thảo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được kinh doanh BĐS trong một số phạm vi như: đầu tư xây dựng nhà ở trên đất được Nhà nước giao để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê, cho thuê mua; đầu tư xây dựng các loại nhà, công trình xây dựng trên đất được Nhà nước cho thuê để bán, cho thuê, cho thuê mua…
Đồng ý với việc mở rộng đối tượng kinh doanh này, nhưng ĐB Phùng Đức Tiến (Hà Nam) cho rằng việc kinh doanh BĐS gắn với đất đai phức tạp cần phải có quy định chặt chẽ, tránh những hệ lụy phát sinh liên quan. Bởi thực tế vừa qua đã có cấp phép cho Việt kiều, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư, kinh doanh nhưng do năng lực yếu kém, đất đai bị bỏ hoang, bị thu hồi, phát sinh tranh chấp ảnh hưởng uy tín quốc gia.
Do vậy, việc mở rộng này cũng cần phải đi kèm với các điều kiện như: hạn chế tổ chức, cá nhân đầu tư vào các địa bàn nhạy cảm liên quan đến an ninh, quốc phòng; sàng lọc kỹ tư cách của tổ chức cá nhân (về vốn điều lệ, năng lực tài chính…); siết chặt thủ tục phê duyệt; tăng trách nhiệm các tổ chức, cá nhân (như tăng ký quỹ, mua bảo hiểm bắt buộc); hạn chế việc huy động vốn của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đồng tình với quan điểm mở rộng đối tượng kinh doanh ban soạn thảo đưa ra, nhiều ĐB cho rằng điều này phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập. Tuy nhiên, không nên đưa các hạn chế khu vực kinh doanh vào luật mà cần dựa trên quy hoạch để thực hiện điều này, tránh tạo sự phân biệt đối xử.
Tránh giám sát “tay không bắt giặc”
![]() ![]() | |
ĐB Trần Du Lịch |
Theo Điều 8 dự thảo: “Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh BĐS phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, có vốn pháp định do Chính phủ quy định nhưng không được thấp hơn 50 tỷ đồng và đăng ký kinh doanh BĐS theo quy định của pháp luật”; “Các trường hợp bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua BĐS không nhằm mục đích kinh doanh hoặc có quy mô nhỏ không phải thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh BĐS nhưng phải đăng ký kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế”.
ĐB Trần Thị Quốc Khánh (Hà Nội) cho rằng điều kiện về vốn pháp định khi đăng ký kinh doanh là cần thiết nhằm đảm bảo năng lực tài chính doanh nghiệp, tránh tình trạng chủ đầu tư không có năng lực vẫn huy động vốn, thậm chí “tay không bắt giặc” gây nhiều rủi ro, hệ lụy cho các tổ chức, cá nhân liên quan.
Tuy nhiên, quy định về việc bán, cho thuê không nhằm mục đích kinh doanh hoặc quy mô nhỏ không phải lập doanh nghiệp khiến ĐB Khánh băn khoăn khi dự thảo luật lẫn nghị định không quy định rõ trường hợp nào không vì mục đích kinh doanh hay quy mô nhỏ. Do đó, ban soạn thảo cần cân nhắc, tính toán để đưa chi tiết vào trong dự luật.
ĐB Trương Trọng Nghĩa (TPHCM) cũng băn khoăn cần phải có cơ chế kiểm soát tránh việc khai cho có, không ai kiểm soát vốn xảy ra thường xuyên hiện nay. Mặt khác, dự luật cũng cần phải có sự phân biệt các chủ thể tham gia thị trường, bởi thực tế có những người dân, doanh nghiệp dư BĐS nên cho thuê trong thời gian ngắn, nếu siết bằng việc đánh thuế là không phù hợp.
Trong khi có nhiều người mua căn nhà để ở nhưng liên tục tu sửa bán đi, về thực chất là kinh doanh BĐS nhưng lại không bị đánh thuế. Do vậy, cần có sự kiểm soát để tránh lạm dụng quy định này. Theo ĐB Nguyễn Quốc Bình (Hà Nội), nếu không làm rõ thế nào là dự án quy mô nhỏ sẽ dẫn đến việc tổ chức, cá nhân lách vốn pháp định, không thành lập doanh nghiệp nhưng xây chung cư mi ni để bán, gây khó khăn cho khâu kiểm soát. Chính vì vậy cần có quy định rõ cộng với các chế tài cho phù hợp.