Quỹ ETF - công cụ hỗ trợ thị trường, xử lý nợ xấu

Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán về quỹ hoán đổi danh mục chứng khoán (Exchange-Traded Fund- quỹ ETF), cho biết ưu điểm của sản phẩm quỹ ETF so với quỹ đại chúng truyền thống đối với nền kinh tế (theo kinh nghiệm quốc tế):

Thứ nhất, quỹ ETF chứng khoán có thể là một công cụ hiệu quả để xử lý nợ xấu và sở hữu chéo. Cụ thể, quỹ ETF và quỹ bất động sản đã từng được Chính phủ Nhật Bản chú trọng sử dụng trong giai đoạn 2001-2006 nhằm xử lý nợ xấu và sở hữu chéo tại các tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản.

Trong giai đoạn phát triển nóng thập kỷ 70-80 của thế kỷ trước, nhiều tập đoàn công nghiệp của Nhật Bản thành lập ngân hàng, các ngân hàng này nắm giữ CP của các công ty con trực thuộc tập đoàn (sở hữu chéo). Nhiều ngân hàng cung cấp tín dụng với tài sản bảo đảm là CP niêm yết, hoặc bất động sản.

Thập kỷ 90, nền kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn, TTCK sụt giảm, dẫn tới giá trị các CP nằm trong danh mục đầu tư của các ngân hàng hoặc các CP, bất động sản là tài sản bảo đảm cũng giảm mạnh. Điều này làm ảnh hưởng tới bảng cân đối của hệ thống ngân hàng, làm giảm tỷ lệ an toàn vốn, giảm năng lực cung tín dụng của cả hệ thống ngân hàng nói chung.

Để tháo gỡ tình trạng này, Chính phủ Nhật Bản cho phép hình thành các quỹ ETF và các quỹ đầu tư bất động sản, thực chất là việc chứng khoán hóa các tài sản (nợ xấu, sở hữu chéo) trong hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng đưa CP trong danh mục đầu tư vào các quỹ ETF, đưa các hạng mục bất động sản vào các quỹ đầu tư bất động sản (REITS).

Đổi lại, các ngân hàng nhận các chứng chỉ quỹ ETF và chứng chỉ quỹ REITS, đều là các sản phẩm niêm yết, thanh khoản cao và không nằm trong danh mục các tài sản bị loại trừ khi tính chỉ tiêu an toàn vốn theo chuẩn Basel.

Điều này cải thiện đáng kể chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng, làm sạch bảng cân đối kế toán của các tổ chức này; tăng tỷ lệ an toàn tài chính, làm giảm nợ xấu, giảm dự phòng trích lập, từ đó làm tăng khả năng cung tín dụng của cả hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, quỹ ETF còn là công cụ phòng chống khủng hoảng. Điển hình là sự can thiệp của Chính quyền Hồng Công nhằm chống đầu cơ tiền tệ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á.

Trước đó, các nhà đầu cơ nước ngoài giữ vị thế bán hợp đồng tương lai chỉ số trong giai đoạn 1997-1998, gây áp lực khiến chỉ số HSI trên TTCK Hồng Công sụt giảm mạnh, dẫn tới Chính quyền Hồng Công phải mua danh mục chứng khoán cấu thành chỉ số HSI nhằm chặn đà giảm của chỉ số, hạn chế đầu cơ phái sinh và đầu cơ tỷ giá của giới đầu cơ nước ngoài.

Tháng 12-1998, trên cơ sở danh mục chứng khoán nắm giữ, Chính quyền Hồng Công thành lập Quỹ ETF TraHK (Tracker fund), quản lý bởi State Street Global Advisors Asia. Mặc dù việc can thiệp của Chính quyền Hồng Công vào TTCK vẫn đang là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, nhưng hiệu quả của Quỹ ETF TraHK trong việc ngăn ngừa khủng hoảng ở Hồng Công là một sự thành công không thể phủ nhận.

Thứ ba, quỹ ETF tăng tính hấp dẫn cho TTCK, đặc biệt là thị trường thứ cấp; tạo ra sản phẩm đầu tư minh bạch, cơ chế giao dịch linh hoạt, đa dạng hóa rủi ro và được quản lý chuyên nghiệp; giúp TTCK thu hút thêm NĐT mới, dòng vốn mới trên thị trường thứ cấp, tạo sự lan tỏa để thu hút thêm nguồn vốn cho nền kinh tế qua thị trường sơ cấp. 

Thứ tư, quỹ ETF thay đổi hành vi và văn hóa đầu tư. Thay vì thực hiện đầu tư vào từng mã chứng khoán riêng biệt, đòi hỏi nhiều thời gian để phân tích thị trường và thời điểm giao dịch. Điều này ngày càng trở nên khó khăn hơn khi số lượng CP niêm yết ngày một nhiều hơn, thậm chí lên tới hàng ngàn mã CP.

Với sản phẩm quỹ ETF, NĐT sẽ đầu tư vào một rổ chỉ số, dễ theo dõi và phù hợp với các NĐT nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp hoặc các NĐTNN, các NĐT tổ chức (quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm). Ngoài ra, việc đầu tư vào rổ chứng khoán (đầu tư theo chỉ số) cũng hạn chế hiện tượng thị trường bị lạm dụng, thao túng.

Thứ năm, quỹ ETF thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt do cơ chế quỹ mở, NĐTNN không bị hạn chế sở hữu số lượng chứng chỉ quỹ nắm giữ. Tuy nhiên, việc NĐTNN khi nhận lại danh mục cơ cấu, thì sẽ phải bán ra nếu vượt tỷ lệ sở hữu, vẫn giúp duy trì việc quản lý tỷ lệ sở hữu tại các tổ chức phát hành. 

Các tin khác