Số liệu vừa được Tổng cục Thống kê công bố, cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7-2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất trong 7 tháng qua (trừ tháng Hai có số ngày làm việc ít nhất).
Sản xuất của nhiều địa phương giảm mạnh
Tính chung 7 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 2,6% của cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn mức tăng 9,4% của cùng kỳ năm 2019.
Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 9,9% (cùng kỳ năm 2020 tăng 4,2%), đóng góp 8,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,2%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,6%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 6,3%, làm giảm 1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Trong khi đó ở miền Bắc, hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang cơ bản đã khống chế, kiểm soát được dịch bệnh, nên hoạt động sản xuất trong các khu công nghiệp dần hồi phục. Tốc độ tăng chỉ số công nghiệp so với cùng kỳ năm trước của Bắc Giang lần lượt tháng 5 giảm 26,7%, tháng 6 giảm 49,8% và tháng 7 giảm 15,3%; Bắc Ninh tăng 23,9%, giảm 8,6% và tăng 1,1%.
Riêng TP.Hà Nội, chỉ số công nghiệp tháng 7-2021 tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước do mới thực hiện giãn cách xã hội từ ngày 24-7-2021.
Không để đứt gãy chuỗi sản xuất trong bất cứ kịch bản dịch Covid-19 nào đang là một trong những mục tiêu lớn nhất của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều giải pháp quyết liệt tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh bảo vệ sản xuất đang được nỗ lực triển khai.
Một số địa phương mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19 nhưng chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2021 vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước, là Bình Dương tăng 7,4%, Cần Thơ tăng 7,2%, Đồng Nai tăng 7,1%, Tiền Giang tăng 3,1%, Long An tăng 3%, Tp.HCM tăng 2,3%, Đồng Tháp tăng 2,1%.
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), do tính chất gắn kết chặt chẽ, hữu cơ, liên tục của chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị các ngành công nghiệp trên thế giới, nếu Việt Nam không thể tận dụng cơ hội từ sự phục hồi kinh tế của các thị trường lớn và đánh mất các đơn hàng cung ứng cho các quốc gia này trong thời gian tới, từ đó gây ra sự đứt gãy của chuỗi sản xuất.
Trong trường hợp gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu, các nhà mua hàng và sản xuất lớn sẽ tìm kiếm sự bù đắp thiếu hụt chuỗi cung ứng từ quốc gia khác. Việc quay trở lại chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ cực kỳ khó khăn và cần phải có quá trình.
Các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm hơn 85% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, có tác động lan tỏa đến các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, logistics... và đặc biệt là tạo việc làm cho hàng chục triệu lao động trực tiếp cũng như gián tiếp trong các ngành nghề liên quan.
Không để đứt gãy chuỗi sản xuất
Việc đứt gãy các chuỗi giá trị và cung ứng trong các ngành sản xuất trong nước do đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an sinh xã hội cũng như kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Vì vậy, việc duy trì liên tục các chuỗi giá trị và cung ứng của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là cực kỳ quan trọng trong ngắn hạn cũng như đảm bảo phát triển kinh tế đất nước trong dài hạn.
Tuy nhiên, khi dịch bệnh bùng phát trở lại, tập trung chủ yếu ở các tỉnh có số lượng lớn khu công nghiệp và doanh nghiệp trong các ngành chế biến chế tạo đã khiến hoạt động sản xuất bị gián đoạn, nhiều doanh nghiệp phải dừng sản xuất, ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng, đặc biệt là các đơn hàng xuất khẩu.
Từ phản ánh của các hiệp hội, ngành hàng và các doanh nghiệp, có thể thấy, nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn, vướng mắc hiện nay trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là do không bảo đảm được quá trình lưu thông, vận chuyển hàng hóa thông suốt khi các địa phương áp dụng các chính sách, quy định khác nhau về giãn cách, kiểm soát lưu thông hàng hóa, quy định về thực phẩm thiết yếu... càng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, ngày 29-7-2021, Văn phòng Chính phủ ban hành công văn hoả tốc số 5187/VPCP-CN về ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Lê Văn Thành trong việc tạo thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa trong tình hình dịch Covid-19.
Khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp là không bảo đảm được quá trình lưu thông, vận chuyển hàng hóa thông suốt khi các địa phương áp dụng các chính sách, quy định khác nhau về giãn cách.
Theo đó, từ ngày 30-7-2021, không kiểm tra tại các chốt kiểm soát dịch đối với phương tiện có giấy nhận diện QR Code còn thời hạn do ngành giao thông vận tải cấp, để chở hàng phục vụ xây dựng, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, tiêu dùng (trừ các hàng hóa cấm sản xuất, kinh doanh) trên phạm vi cả nước.
Trước đó, Bộ Công Thương đã có văn bản đề xuất ban hành Danh mục hàng hóa “cấm lưu thông” thay vì liệt kê danh mục “hàng hóa thiết yếu” được phép lưu thông, nhằm tránh việc mỗi địa phương có cách hiểu và áp dụng khác nhau về danh mục hàng hóa thiết yếu khi áp dụng Chỉ thị số 16 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đề xuất của Cục Công nghiệp, đối với các doanh nghiệp phía Nam – với đặc thù sử dụng nhiều lao động nhập cư từ các địa phương khác, chỉ nên yêu cầu thực hiện phương châm “1 cung đường, 2 địa điểm”, không nên yêu cầu áp dụng phương châm “3 tại chỗ”, trong đó, doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm xác nhận cung đường và địa điểm cho người lao động và cam kết chịu trách nhiệm trong trường hợp để xảy ra việc lây lan dịch bệnh.
Đồng thời, cần có quy định và hướng dẫn cụ thể về lộ trình dự kiến phục hồi sản xuất để các doanh nghiệp có kế hoạch về nhân sự, lao động và tài chính để hoạt động trở lại sau dịch.