Sông Thao “thêm một lần tôi đến để rồi đi”
“Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê/ Cuối sông ngoài bến ai về có thấy đồng mía nương chè với mối tình thắm bên làng quê/ Hồng Hà chơi vơi dâng nước trên nguồn về khơi/ Sông Thao ngoài bến Việt Trì/ Có những chàng áo nâu về say mê giòng nước… vui tràn trề”.
Đó là đoạn mở đầu cho tráng khúc Du kích sông Thao nổi tiếng của nhạc sĩ Đỗ Nhuận viết từ năm 1949 tại ngã ba sông Việt Trì, sau thắng lợi của Chiến dịch Sông Thao thời 9 năm chống Pháp. Điều thú vị, khi chúng tôi về Việt Trì cuối năm 2022 và đi bên bờ con sông hình thành tráng khúc Du kích sông Thao, cũng là thời điểm kỷ niệm 100 năm sinh nhạc sĩ tài ba Đỗ Nhuận (10-12-1922 - 10-12-2022).
Bài hát bất tử của ông cũng như bài thơ Sông Thao nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Duy sau này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp và làm “sống” mãi dòng sông Thao thơ mộng và bi hùng:“Sông Thao thêm một lần tôi tắm/ thêm một lần tôi đến để rồi đi/ gió cứ thổi trống không ngoài bãi vắng/ tôi nhìn em để không nói năng gì”.
Cổng Đền Hùng ở Việt Trì Phú Thọ. |
Sông Thao lịch sử đi vào văn học nghệ thuật là dòng chính của sông Hồng. Người dân tộc thiểu số ngữ hệ Tày Thái gọi sông này là Nậm Tao, tức Sông Cái hay Sông Lớn, còn người Việt gọi là sông Thao. Bắt nguồn từ Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, sông Thao chảy vào địa phận tỉnh Lào Cai nước ta rồi qua Yên Bái xuống tới ngã 3 Trung Hà của tỉnh Phú Thọ, hợp lưu với sông Đà và chảy tiếp đến ngã ba Hạc cũng của tỉnh Phú Thọ, hợp lưu với sông Lô tạo thành sông Hồng.
Đoạn sông Thao chảy qua núi rừng Lào Cai lưu vực nhỏ, dốc nước chảy xiết. Kể từ Yên Bái xuống Phú Thọ, lưu vực sông Thao mở rộng, có nơi như ở Việt Trì lưu vực sông bề ngang tới 2-3km.
Vì chứa nhiều oxit sắt nên phù sa sông Thao màu đỏ. Lưu lượng nước sông thay đổi thất thường. Mùa mưa nước sông Thao dâng rất cao. Mùa khô lưu lượng rất thấp, gây khó khăn cho nước sinh hoạt dân cư và sản xuất nông nghiệp.
Mùa xuân nước sông Thao đang xuống thấp dần nhưng lưu lượng chảy qua thành phố Việt Trì vẫn đủ cái mênh mông dạt dào sóng nước cho những tâm hồn tìm về cội nguồn. Lớp lớp người người ra đi nhưng sông Thao vẫn miệt mài sứ mệnh, mải miết xuôi dòng theo thăng trầm lịch sử dòng giống Rồng Tiên!
Đạo pháp tổ tiên sáng soi đường bay dòng giống Lạc Hồng
Theo truyền thuyết, Lộc Tục Kinh Dương Vương là vua nước Xích Quỷ đã truyền ngôi cho con là Sùng Lãm Lạc Long Quân. Sau khi hợp duyên cùng Âu Cơ sinh ra 100 người con, Lạc Long Quân đã phong cho con trưởng là Hùng Vương làm vua nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, trải qua 18 đời vua.
Kinh đô Phong Châu đầu tiên nằm ở nơi hợp lưu sông Thao với sông Đà, về sau dịch chuyển xuống nơi hợp lưu sông Thao với sông Lô, nghĩa là cũng nằm trong không gian địa lý Việt Trì và vùng lân cận phía Tây - Tây Nam ngày nay.
Lăng Hùng Vương. |
Về phong thủy, vị thế Phong Châu được xem là đại long mạch hội đủ các yếu tố cho một kinh đô vững bền. Với 3 con sông lớn vòng quanh hội tụ bao bọc, kinh thành còn được che chắn bởi dãy núi Tam Đảo ở phía Bắc, những ngọn núi liên hoàn của dãy Hoàng Liên Sơn ở phía Nam, cùng những ngọn đồi trùng điệp phía Tây Bắc, với hình thù 99 con voi chầu về núi Hùng, tức núi Nghĩa Lĩnh ở trung tâm như cái đầu rồng nhô lên, và trước mặt là đồng bằng châu thổ rộng lớn có hòn núi Tản Viên án ngữ như vị thần bảo vệ kinh đô.
Vẫn như mọi lần, bao giờ về kinh đô Phong Châu xưa tôi cũng lên dâng hương Đền Hùng đầu tiên. Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt này vừa được giữ gìn cẩn thận những nét cổ kính vừa được tôn tạo, xây dựng những hạng mục mới thêm phần bề thế hoành tráng. Đây còn là khu bảo tồn thiên nhiên phong phú với những cổ thụ nguyên thủy quý hiếm nhất nước ta hiện nay.
Đức tin tâm linh và ý thức bảo vệ di sản cha ông của chính quyền và người dân Đất Tổ thật đáng trân trọng. Đền Hùng và các di tích cổ hợp cùng với các công trình mới mang tâm thức thời đại Hùng Vương là bệ phóng nâng cánh cho thành phố Việt Trì, đô thị loại I trung tâm cho cả vùng trung du miền núi Bắc bộ.
Tượng đài Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật ở đền Tam Giang. |
Xuống núi Nghĩa Lĩnh, tôi được nhà thơ Ngô Kim Đỉnh và họa sĩ Nguyễn Đình Ánh đưa đi vòng quanh thăm một số địa chỉ văn hóa trước khi đến thăm Di tích Quốc gia Làng Cả. Địa chỉ đỏ này, theo nhà thơ Ngô Kim Đỉnh, nếu núi Nghĩa Lĩnh là nơi các vua Hùng yên nghỉ ngàn thu, thì Làng Cả là “Nghĩa trang Mai Dịch” của các Lạc hầu, Lạc tướng.
Khu mộ táng này vốn nằm trên ngọn đồi nay gần như bị san bằng ở bên hữu ngạn sông Thao, cách Đền Hùng 13km về phía Đông Nam. Đây là di chỉ khảo cổ học rất quan trọng thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn, có giá trị khoa học đặc biệt để nghiên cứu về thời đại Hùng Vương và nhà nước Văn Lang.
Di tích Làng Cả là minh chứng sống động và xác thực về sự tồn tại của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa sầm uất từ thời sơ khai và có tính liên tục: Thời Hùng Vương - Bắc Thuộc - phong kiến tự chủ mãi về sau này của dân tộc ta.
Giống như Di tích Quốc gia Làng Cả, miếu thờ Lang Liêu đã thành phế tích và đang trong quá trình phục dựng. Thắp nén hương cho vị vua hiếu thảo sống hòa lẫn với nhân dân, lòng tôi dậy lên bao xúc cảm khôn nguôi.
Truyền thuyết bánh chưng bánh dày qua hình tượng hoàng tử Lang Liêu không chỉ có ý nghĩa về triết học, mỹ học, kinh tế, pháp trị… còn là câu chuyện nhân văn truyền cảm hứng về đức hiếu sinh cho con cháu dòng giống Lạc Hồng: “Chớm xuân dâng hương Lang Liêu/ Đất Tổ bồi hồi huyền tích bánh chưng bánh dày/ Trời tròn đất vuông nghiêng mình tấm lòng hiếu thảo/ …Lớp lớp vương quyền đỉnh mây vinh hoa/ Miếu nhỏ ẩn mình lưu giữ mạch nguồn nhân nghĩa/ Đạo pháp tổ tiên sáng soi đường bay dòng giống Lạc Hồng”.