![]() |
Tình hình thu hút FDI năm 2012 đang ngày càng tiến triển tốt khi số vốn giải ngân lẫn đăng ký của tháng 3 đạt hơn gấp rưỡi 2 tháng đầu năm. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (KH-ĐT), tổng vốn FDI giải ngân trong 3 tháng qua ước đạt 2,52 tỷ USD, bằng 99,2% so với cùng kỳ năm 2011.
Như vậy, so với con số 1 tỷ USD giải ngân của 2 tháng trước, tháng 3 đã có mức đột biến về vốn giải ngân với hơn 1,5 tỷ USD. Về thu hút vốn FDI, tính đến hết ngày 20-3, cả nước đã thu hút được 2,63 tỷ USD, bằng 63,6% so với cùng kỳ. Xét theo lĩnh vực đầu tư, tháng 3 đã chứng kiến sự đổi ngôi ngoạn mục của lĩnh vực bất động sản khi từ vị trí "đội sổ" tháng trước, đã vươn lên đứng đầu với hơn 1,2 tỷ USD vốn đăng ký.
Có được kết quả này nhờ trong tháng 3 đã thu hút được dự án khu đô thị Tokyu Bình Dương do Công ty TNHH Becamex Tokyu (liên doanh giữa Việt Nam và Nhật Bản) đầu tư có tổng vốn đăng ký 1,2 tỷ USD.
Sự gia tăng đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp Nhật Bản (trong bối cảnh sau thảm họa động đất sóng thần Nhật Bản cần một nguồn lực rất lớn để tái thiết đất nước) là một điều khá thú vị cần được lý giải. Trong 26 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong năm nay, Nhật Bản là nước có số vốn FDI lớn nhất với tổng cộng 2,34 tỷ USD vốn đăng ký và tăng thêm tính đến thời điểm hiện tại, chiếm 88,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ KH-ĐT, FDI Nhật Bản vào Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng bởi chất lượng dòng vốn cũng như cơ cấu đầu tư phù hợp với định hướng thu hút FDI của Việt Nam. Hàm lượng công nghệ và tác động lan tỏa đối với nền kinh tế luôn khiến chất lượng FDI Nhật Bản cao hơn FDI đến từ các quốc gia khác.
Công nghiệp chế biến, chế tạo, những ngành có hàm lượng công nghệ cao cũng chiếm tới 86,3% tổng vốn đầu tư đăng ký FDI Nhật Bản tại Việt Nam.
Rõ ràng, dòng vốn FDI Nhật Bản rất đáng trân trọng trong bối cảnh nước ta đang chuyển hướng thu hút đầu tư, chọn lọc và định hướng các dự án FDI vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ và giá trị cao hơn.
Tuy nhiên, để hấp thu được dòng vốn này lại không dễ dàng. Liên tiếp tại những hội nghị đầu tư Nhật Bản gần đây, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản kiến nghị Việt Nam cần phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút hơn nữa FDI Nhật Bản.
Hiện tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam mới chỉ đạt 22% do ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam vừa yếu, vừa thiếu và không đáp ứng được yêu cầu của các nhà sản xuất Nhật Bản.
Điều này cũng có nghĩa nếu công nghiệp phụ trợ của Việt Nam không phát triển, chúng ta sẽ bỏ lỡ đi nhiều cơ hội, không chỉ về thu hút đầu tư mà còn liên quan đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ cho biết các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt doanh nghiệp Nhật Bản đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao, số lượng lớn và thời gian giao hàng rất nghiêm ngặt.
Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết làm ăn manh mún, chưa chuyên nghiệp, muốn mở rộng sản xuất lại gặp khó khăn bởi lãi suất ngân hàng quá cao. Đầu năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 12 về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng đến nay việc triển khai vẫn chưa mạnh mẽ.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng trong bối cảnh khó khăn hiện nay cần thêm những chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và thiết thực hơn mới có thể phát triển được công nghiệp phụ trợ.
Vướng mắc nữa của ngành công nghiệp phụ trợ nước ta là nhân lực còn thiếu và yếu. Theo khuyến nghị của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (Jetro), ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam cần có chiến lược đào tạo nhân lực bài bản ngay từ khi mới hình thành.
Ở Nhật Bản, có 2 biện pháp hỗ trợ tài chính từ Chính phủ và hỗ trợ về kỹ thuật để nâng cao tay nghề. Jetro cam kết sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực dồi dào, thậm chí miễn phí 50% kinh phí. Vấn đề đặt ra lúc này là các doanh nghiệp phải chủ động tìm ra thế mạnh và lợi thế so sánh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, từ đó chiếm lấy phân khúc trong chuỗi giá trị toàn cầu.