Thành tựu y dược “xanh”

(ĐTTCO) - Nghiên cứu sản xuất dược phẩm hiện nay có xu hướng đi theo thiên nhiên. Tức là, thay vì tìm ra thuốc mới bằng con đường tổng hợp hóa học thuần túy, tạo ra các hóa chất không có trong tự nhiên nhiều khi có hại cho môi trường, người ta chú trọng đến vật liệu sống hay có nguồn gốc từ dược thảo, từ động vật. 

Những vị thuốc thiên nhiên
Có quan niệm cho rằng thuốc là dược thảo không độc hoặc ít độc hơn thuốc hóa dược tây y. Quan niệm này có lý do của nó, phần lớn thuốc tây y đi từ con đường tổng hợp của hóa học, tức là những hóa chất ít nhiều độc tính; trong khi phần lớn thuốc đông y xuất phát từ cây cỏ, là sinh chất thiên nhiên dễ hòa hợp với sự sống của con người hơn các chất nhân tạo. Trước đây khá lâu các nhà dược học thường  đưa ra trường hợp long não (camphre) để chứng minh ưu điểm của thuốc điều chế từ dược thảo, tức từ hợp chất thiên nhiên: Long não chiết ra từ cây long não (Cinnamomun camphora, họ Lauraceae) tỏ ra không độc bằng long não tổng hợp bằng con đường nhân tạo. Bởi vì, chỉ cần phương pháp tổng hợp không hoàn chỉnh là người ta không tách được long não tả triền, là chất độc ra khỏi hỗn hợp mà sự tổng hợp tạo nên, trong khi từ dược thảo thiên nhiên long não được chiết xuất không độc như nhân tạo.
Hiện nay, ngày càng có nhiều phát minh về thuốc xuất phát thiên nhiên, đặc biệt từ nghiên cứu về các động vật, kể cả động vật hoang dã (lưu ý, nghiên cứu tìm ra thuốc từ động vật hoang dã nhưng hoàn toàn không tiêu diệt chúng). Có thể gọi các nghiên cứu phát triển dược phẩm theo hướng thiên nhiên này là một loại “nghiên cứu phát triển xanh”, bởi lẽ so với hóa chất hoàn toàn xa lạ, hợp chất thiên nhiên dù gì vẫn dễ tương hợp với cơ thể người. 
Thành tựu y dược “xanh” ảnh 1 Quan khách xem xét, thử nghiệm món ăn được chế biến gồm các thảo dược tự nhiên, có lợi đối với sức khỏe. 
Gần đây, có thuốc mới đã ra đời được dùng trị đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2. Thuốc mới trị ĐTĐ týp 2 này nằm trong nhóm thuốc mới có tên thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin. Ta cần biết, trong ĐTĐ týp 2 có sự thiếu insulin do 2 bất thường: giảm tiết insulin hoặc có sự đề kháng insulin (do giảm tác dụng của insulin trên tế bào mô đích, đặc biệt là tế bào cơ). Vì vậy, để điều trị ĐTĐ týp 2 sẽ dùng thuốc hạ đường huyết loại uống phân thành 5 nhóm đang được dùng phổ biến như sau: nhóm sulfonylure (gồm glibenclamid, glipizid, glicazid, glimepirid, có tác dụng kích thích tế bào bêta tuyến tụy tiết ra insulin); nhóm biguanid (chỉ có một thuốc được sử dụng là metformin, có tác dụng  làm giảm sự đề kháng insulin); nhóm ức chế men alpha-glucosidase (gồm acarbose, voglibose, miglitol, tác dụng của thuốc là ức chế alpha-glucosidase, làm giảm sự hấp thu đường tại ruột); nhóm metiglinid (gồm repaglinid, nateglinid, tác dụng của thuốc là kích thích tế bào bêta tuyến tụy tiết ra insulin giống như nhóm sulfonylure); nhóm thiazolidinedion (gồm rosiglitazon, pioglitazon, tác dụng của thuốc là làm giảm sự đề kháng insulin giống như metformin). 5 nhóm thuốc đều là hóa chất tổng hợp và một số thuốc như rosiglitazon đã bị cấm, còn pioglitazon đang bị cảnh giác vì gây tác dụng có hại quá nặng nề.Dòng thuốc ít nguy hại
Hiện nay, người ta phát hiện sự giảm khả năng tiết insulin của các tế bào bêta còn bị chi phối bởi các hormon peptid có tên incretin do niêm mạc đường tiêu hóa tiết ra khi thức ăn thức uống đi qua dạ dày - ruột. Bằng các incretin được tiết ra, trong đó có GLP-1 (viết tắt của Glucagon-Like Peptid-1, tức peptid-1 giống glucagon) là hormon có tác dụng mạnh nhất, cơ thể tạo sự kích thích tế bào bêta tiết ra insulin để hạ hàm lượng glucose trong máu xuống đến mức cần thiết. Biết được cơ chế của sự giảm tiết insulin do các incretin, đặc biệt do GLP-1 gây ra, người ta phát minh ra thuốc mới trị ĐTĐ týp 2 theo cơ chế gọi là thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin.  Exenatid là thuốc tổng hợp đầu tiên thuộc nhóm này được đưa ra thị trường vào năm 2005 để trị ĐTĐ týp 2. Exenatid còn được gọi là chất bắt chước GLP-1, là hợp chất thiên nhiên và là một polypeptide cấu tạo bởi 39 acid amin. Exenatid có cấu trúc tương tự 53% so với cấu trúc của GLP-1. Đây được xem là phát minh xanh vì exenatid được tìm ra nhờ sự phát hiện hợp chất exendin-4 có trong nước bọt của kỳ nhông có tên Gila monster (tên khoa học Heloderma suspectum) sống ở một số bang ở miền Tây Nam Hoa Kỳ. Thuốc thứ hai của nhóm bắt chước incretin là liraglutid đã ra đời. Liraglutid có cấu trúc tương tự đến 97% cấu trúc của GLP-1. Cũng giống như exenatid, liraglutid được bào chế dùng dưới dạng tiêm dưới da.
Thành tựu xanh được tiếp tục với sự ra đời của nhóm thuốc có tên nhóm ức chế DPP-4. Đây là nhóm thuốc nối tiếp nhóm tăng cường hoặc bắt chước incretin. Chúng không bắt chước incretin mà có tác dụng bất hoạt enzym phân hủy incretin, có tên dipeptidyl-peptidase-4 (DPP-4). Tức các thuốc nhóm này do bất hoạt DPP-4 là chất phân hủy một incretin là GLP-1 mà kéo dài đời sống của GLP-1. Thuốc ra đời từ cuối năm 2006 đến nay có các thuốc: sitaglitin, vidalglitin, saxagliptin, linagliptin… Các thuốc này có lợi điểm là dùng dạng viên uống nhưng có bất lợi là cơ thể người bệnh phải còn khả năng tiết ra GLP-1.
Thế giới vui hẳn lên vì thành tựu xanh mở rộng sang lĩnh vực tim mạch. Mới đây, nhờ quan sát sự tiêu hóa thức ăn và chuyển hóa của con trăn, các nhà khoa học có triển vọng phát minh dược phẩm kết hợp 3 loại axit béo trị bệnh tim cho người. Có lẽ không bao lâu nữa các thuốc tim mạch này sẽ ra đời.

Các tin khác