Bài viết này tiếp tục cập nhật “toàn cầu hóa trong bối cảnh mới” để xem xét sự định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu.
Hệ thống tiền tệ thế giới
Toàn cầu hóa về cơ bản đã định hình lại cách thức hoạt động của các nền kinh tế các nước tiên tiến (bao gồm khu vực đồng EUR và Mỹ). Cùng với đó, hệ thống tài chính của các nền kinh tế phát triển đã được chuyển đổi thông qua dòng tài chính toàn cầu.
Trong khi đó, một sự thay đổi cơ bản trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã có sự đóng góp ngày càng gia tăng từ các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (hình 1).
Hình 1: Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Nguồn: IMF World Development Indicators and Haver Analytics.
Nguồn: IMF World Development Indicators and Haver Analytics.
Điều này cũng có nghĩa là mức độ đóng góp của các nền kinh tế này cũng gia tăng trong thương mại toàn cầu (hình 2).
Hình 2: Tỷ lệ phần trăm hàng hóa nhập khẩu tính bằng USD. Nguồn: IMF World Development Indicators, IMF World Economic Outlook and Haver Analytics.
Việc mở rộng thương mại quốc tế đã đi liền với sự mở rộng tài sản gia tăng bên ngoài so với GDP toàn cầu (hình 3).
Hình 3: Sự phát triển tài sản bên ngoài trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Nguồn: External Wealth of Nations database (Lane and Milesi-Ferretti) and ECB staff calculations.
Điều này cho thấy lợi ích của các nền kinh tế phát triển trong việc thúc đẩy thương mại toàn cầu để mở rộng cung tiền (Bảng 1, hình 4). Nguồn: External Wealth of Nations database (Lane and Milesi-Ferretti) and ECB staff calculations.
Bảng 1.
Hình 4: Cung tiền M0 của một số quốc gia. Nguồn: Trading Economics.
Qua đó, cùng với sự gia tăng trong thương mại quốc tế và đầu tư đã đưa đến sự tập trung trong một số loại tiền tệ nhất định. Đồng USD vẫn giữ vai trò chủ đạo, đồng EUR đứng thứ 2 (hình 5). Đó cũng là lý do chính mà Mỹ và các quốc gia phương Tây sử dụng quyền thống trị này để áp đặt các lệnh trừng phạt.
Hình 5: Hệ thống tiền tệ quốc tế. Nguồn: BIS, CLS Bank International, IMF, SWIFT and ECB calculations. See also ECB (2019).
Mức độ áp đặt các lệnh trừng phạt thông qua hệ thống thanh toán tiền tệ này đang ngày càng gia tăng đã làm cho các quốc gia trên thế giới thiết lập những hệ thống thanh toán khác nhau để né tránh các lệnh trừng phạt này. Một số quốc gia thanh toán song phương sử dụng các loại tiền tệ của nhau hoặc thiết lập một số hệ thống thanh toán thay thế hệ thống SWIFT như hệ thống CIPS của Trung Quốc…
Như vậy, những thách thức lên hệ thống tiền tệ hiện nay vẫn đang tồn tại và ngày một gia tăng khi các lệnh trừng phạt liên tục được áp đặt từ các nước phát triển mà chúng tôi đã đề cập trong hội thảo lần 1 (Lê Đạt Chí, Đinh Thị Thu Hồng, Trần Thị Hải Lý, 2021). Nhưng những thách thức này đã đủ lớn để hệ thống tiền tệ dựa trên đồng USD mất đi vai trò của nó?
Sự xói mòn của USD!(?)
Thế giới ngày nay đang có nhiều thay đổi nhanh chóng từ vai trò dẫn dắt toàn cầu hóa của các nền kinh tế phát triển, sự trỗi dậy của Trung Quốc, cường độ áp đặt các lệnh trừng phạt trong hệ thống tiền tệ hiện tại gia tăng… Vậy niềm tin của các quốc gia tham gia thương mại và đầu tư toàn cầu liệu có suy giảm vào hệ thống tiền tệ dựa vào đồng USD hiện nay?
Theo quan điểm của Paul Krugman, việc các quốc gia tham gia thương mại quốc tế sử dụng hệ thống tiền tệ nào cần tiếp cận trên 2 khía cạnh là quy mô (size) và độ sâu (thickness) thị trường (Paul Krugman, 1980). Khi mà hệ thống tiền tệ đã trở nên được “vũ khí hóa” trước cuộc xung đột Nga-Ukraine, thì Trung Quốc và Ả Rập Saudi đang trở nên lo ngại khi tham gia vào hệ thống SWIFT. Zhou Xiaochuan (cựu Thống đốc Ngân hàng nhân dân Trung Quốc) đã nói về nguy cơ của Trung Quốc và kêu gọi tăng cường sử dụng đồng nhân dân tệ trên toàn cầu qua hệ thống CIPS, nhưng kết quả thì giá trị giao dịch chỉ đạt 1% so với SWIFT.
Một hệ thống tiền tệ được lựa chọn trong thanh toán quốc tế, đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu tài trợ cao trong thời kỳ khủng hoảng cho các các tổ chức tài chính quốc tế. Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã đưa ra 2 chương trình đáp ứng cho những căng thẳng trong thiếu hụt tiền tệ thanh toán, là cuộc khủng hoảng 2008-2009 và khủng hoảng Covid-19 tháng 3-2020 (Carol Bertaut, Bastian von Beschwitz, Stephanie Curcuru, 2021).
Giá trị của các dòng giao dịch này rất lớn, trị giá 585 tỷ USD trong thời kỳ khủng hoảng 2008-2009 và 450 tỷ USD trong thời kỳ Covid-19. Trong khi đó, đồng EUR cũng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế, nhưng lại không được sử dụng hoán đổi rộng rãi với các loại tiền tệ khác ngoài đồng USD. Như vậy, việc sử dụng đồng USD như một “phương tiện” hơn là trong vai trò thanh toán trực tiếp giữa các quốc gia như Trung Quốc kêu gọi.
Gita Gopinath và Jeremy Stein, đã mô tả một vòng phản hồi khác liên quan đến định giá (Gita Gopinath và Jeremy Stein, 2021). Vì nhiều hàng hóa được định giá bằng USD, tài sản USD có sức mua tương đối dễ dự đoán; điều này củng cố nhu cầu đối với các tài sản này, do đó làm cho việc vay bằng đồng USD có phần rẻ hơn so với các loại tiền tệ khác. Và vay bằng đồng USD giá rẻ lần lượt mang lại cho doanh nghiệp một động lực để hạn chế rủi ro trong vay nợ thông qua việc định giá sản phẩm bằng đồng USD.
Một vấn đề quan trọng của việc lựa chọn loại tiền tệ trong thanh toán quốc tế là thị trường nợ ứng với tiền tệ đó phát triển đến mức độ nào. Khi đồng EUR ra đời đã tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường nợ cạnh tranh với Mỹ, thế nhưng sau cuộc khủng hoảng nợ, do những lo ngại về vỡ nợ nên lợi suất của trái phiếu EUR do các chính phủ châu Âu phát hành đã trở nên phân kỳ. Nghĩa là không còn một thị trường trái phiếu EUR để cạnh tranh với thị trường trái phiếu Mỹ (Paul Krugman, 2022).
-----------
Tài liệu tham khảo
1. Carol Bertaut, Bastian von Beschwitz, Stephanie Curcuru, The International Role of the U.S. Dollar, FEDS Notes. Washington: Board of Governors of the Federal Reserve System, 10/2021.
2. Gita Gopinath và Jeremy Stein, Banking, Trade, and the Making of a Dominant Currency, The Quarterly Journal of Economics, Volume 136, Issue 2, May 2021, Pages 783–830.
3. Lê Đạt Chí, Đinh Thị Thu Hồng, Trần Thị Hải Lý, Cấu trúc của hệ thống tiền tệ toàn cầu, Hội thảo quốc gia “Định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu và chiến lược của Việt Nam”, NXB Thông tin truyền thông – ISBN 978-604-80-5415-1, 2021.
4. Paul Krugman, Scale economies, product differentiation, and the pattern of trade, The American Economic Review, 1980.
5. Paul Krugman, Wonking Out: Why the Dollar Dominates, The New York Times-NYT on April 15, 2022.
6. Paul Krugman, Trade and Peace: The Great Illusion, The New York Times, April 2022.
-----------
Tài liệu tham khảo
1. Carol Bertaut, Bastian von Beschwitz, Stephanie Curcuru, The International Role of the U.S. Dollar, FEDS Notes. Washington: Board of Governors of the Federal Reserve System, 10/2021.
2. Gita Gopinath và Jeremy Stein, Banking, Trade, and the Making of a Dominant Currency, The Quarterly Journal of Economics, Volume 136, Issue 2, May 2021, Pages 783–830.
3. Lê Đạt Chí, Đinh Thị Thu Hồng, Trần Thị Hải Lý, Cấu trúc của hệ thống tiền tệ toàn cầu, Hội thảo quốc gia “Định hình lại hệ thống tài chính toàn cầu và chiến lược của Việt Nam”, NXB Thông tin truyền thông – ISBN 978-604-80-5415-1, 2021.
4. Paul Krugman, Scale economies, product differentiation, and the pattern of trade, The American Economic Review, 1980.
5. Paul Krugman, Wonking Out: Why the Dollar Dominates, The New York Times-NYT on April 15, 2022.
6. Paul Krugman, Trade and Peace: The Great Illusion, The New York Times, April 2022.