1. Đại tướng Lê Đức Anh bắt đầu hoạt động yêu nước từ phong trào công nhân cao su ở Bình Phước, nên nhiều người nghĩ ông được vào Đảng khi tham gia phong trào Phú Riềng Đỏ tại miền Đông Nam bộ. Tuy nhiên, trong cuốn hồi ký “Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng” do NXB Chính trị Quốc gia ấn hành, Đại tướng Lê Đức Anh tự thuật: “Tôi tham gia hoạt động cách mạng bắt đầu từ việc đọc sách, báo, tuyên truyền cho dân chúng, trao đổi với nhau về tình hình đất nước bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ... ở làng quê. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động (1-5-1938), ông Đỗ Tram và ông Lê Bá Dị, sau đó anh Hồ Nguyên và anh Huỳnh Văn Viễn đến nhà tôi. Ông Đỗ Tram nói: Hôm nay Chi bộ đồng ý cho cháu Lê Đức Anh vào Đảng Cộng sản. Anh Viết và anh Hồ Nguyên là 2 người giới thiệu.
Anh Viết cũng chính là cậu thiếu niên 8 năm trước (năm 1930) đã giao cho tôi cất giấu lá cờ cách mạng. Và đêm 30-4, rạng ngày 1-5-1930, tôi đã bí mật trao lá cờ cho anh Viết treo trên ngọn phi lao ở chợ Trường Hà bên phá Tam Giang. Phải nhận rõ trong bối cảnh xã hội những năm 1930-1940, khi tình nguyện vào Đảng Cộng sản tức sẵn sàng đón nhận mọi sự nguy hiểm, bắt bớ, tra tấn, tù đày từ bộ máy cai trị của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến, mới hiểu được rằng lúc đó muốn giác ngộ quần chúng để phát triển lực lượng cách mạng, cán bộ, đảng viên cộng sản phải chọn nơi tin cậy".
2.Năm 1940, ông Lê Đức Anh làm phu cao su cho đồn điền CEXO ở Lộc Ninh. Công việc chính của ông không phải là cạo mủ, mà tham gia sản xuất pa tê, xúc xích phục vụ bữa ăn cho công nhân. Vì thế, ông có điều kiện đi lại giữa các đồn điền và vận động phong trào cách mạng. Đầu năm 1943, tại Nông trường Cao su Dầu Tiếng, Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập, do ông Văn Công Khai làm Bí thư, ông Lê Đức Anh làm tỉnh ủy viên phụ trách khu vực phía Bắc. Tháng 2-1944, ông Lê Đức Anh thành lập chi bộ tại Lộc Ninh, sau đó tiếp tục triển khai các cơ sở Đảng tại Hớn Quản và Bù Đốp.
2.Năm 1940, ông Lê Đức Anh làm phu cao su cho đồn điền CEXO ở Lộc Ninh. Công việc chính của ông không phải là cạo mủ, mà tham gia sản xuất pa tê, xúc xích phục vụ bữa ăn cho công nhân. Vì thế, ông có điều kiện đi lại giữa các đồn điền và vận động phong trào cách mạng. Đầu năm 1943, tại Nông trường Cao su Dầu Tiếng, Ban Cán sự Đảng tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập, do ông Văn Công Khai làm Bí thư, ông Lê Đức Anh làm tỉnh ủy viên phụ trách khu vực phía Bắc. Tháng 2-1944, ông Lê Đức Anh thành lập chi bộ tại Lộc Ninh, sau đó tiếp tục triển khai các cơ sở Đảng tại Hớn Quản và Bù Đốp.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông lãnh đạo công nhân nổi dậy giành chính quyền tại Lộc Ninh. Đêm 24-8-1945, ông tổ chức lực lượng gồm 300 người có trang bị vũ khí, từ Lộc Ninh kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia tổng khởi nghĩa. Sau khi Pháp tái chiếm Nam bộ, ông Lê Đức Anh nằm trong danh sách bị truy lùng ráo riết. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, ông và các đồng chí được đồng bào Stiêng đùm bọc và nuôi nấng ở khu vực bí mật thuộc thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản, Bình Phước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông Lê Đức Anh tiếp tục gắn bó với quân dân miền Nam. Cuối năm 1963, ông quay lại lãnh đạo kháng chiến miền Tây và miền Đông Nam bộ, với bí danh Chín Hòa và Sáu Nam. Căn cứ Quân ủy Bộ chỉ huy Miền ở Tà Thiết - Lộc Ninh là nơi ông Lê Đức Anh sống và chiến đấu từ 1973-1975.
Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết, Lộc Ninh, trong đó Trung tướng Lê Đức Anh là Phó Tư lệnh, trực tiếp chỉ huy cánh quân tiến công trên hướng Tây - Tây Nam Sài Gòn (đoàn 232), 1 trong 5 cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
3. Cuộc đời ông Lê Đức Anh là cuộc đời một tướng trận. Vai trò của ông trong lịch sử quân sự Việt Nam không thể tính bằng huy chương hay huân chương, mà được soi rọi qua đánh giá của những đồng đội. Thượng tướng Nguyễn Minh Châu (1921-1999) trả lời phỏng vấn năm 1995, đã nhận định: “Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh… là những vị tướng tài ba của quân đội ta”. Trong những vị tướng mà Thượng tướng Nguyễn Minh Châu bày tỏ khâm phục, ông Lê Đức Anh là người từ giã thế gian sau cùng. Còn trong Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, ông cũng là người sống lâu nhất, khi các ông Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn và Đinh Đức Thiện đã lần lượt khuất núi.
Vậy, hình ảnh Phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh vào tháng 4-1975 của ông Lê Đức Anh có thể hình dung như thế nào? Trong cuốn sách “Phỏng vấn tướng lĩnh Việt Nam” do NXB Trẻ in năm 1999, Trung tướng Dương Cự Tẩm (1921-2006), thổ lộ: “Cuối năm 1974, tôi là chính ủy Quân khu 7, đang chờ xe để ra Bắc nghỉ phép thì được Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền Lê Đức Anh gọi về chuẩn bị nhiệm vụ mới. Lúc đó, tôi thực sự bần thần. Đã gần 11 năm xa vợ con, rất thèm không khí gia đình. Anh Lê Đức Anh chỉ nói có nhiệm vụ mới, không cho biết cụ thể vì bí mật quân sự. Anh khuyên tôi ở lại, vì tôi đã lăn lộn ở chiến trường Nam bộ bao năm, nhất là lúc này có khả năng đánh lớn”.
Đại tướng Lê Đức Anh là con người của lịch sử. Hành trình binh lửa của ông không chỉ thể hiện trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, còn tác động trực tiếp đến cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam khi ông làm Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, cũng như cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo khi ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Điều dễ thấy ở vị Đại tướng này là sự trong sáng, hết lòng phụng sự cho sự nghiệp chung.