Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á

(ĐTTCO) - Ký ức đầu tiên của tôi về Việt Nam là khi chiếc tivi Philip đen trắng được bố mẹ cho xem cảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn năm 1975.

Một góc TPHCM về đêm.
Một góc TPHCM về đêm.

Lúc ấy tôi còn quá nhỏ nên không hiểu hết ý nghĩa của sự kiện ấy, nhưng giờ đây nghĩ lại thật thú vị khi tôi đã sống nửa cuộc đời mình ở đây, một đất nước đã in sâu trong tâm trí tôi từ khi còn nhỏ.

Mối lương duyên với Việt Nam

Mối lương duyên của tôi với Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu sau đó 20 năm, vào năm 1995. Khi ấy tôi làm việc cho Công ty kế toán Arthur Andersen ở New Zealand được 5 năm, rồi quay lại học Thạc sĩ tại New Manager School, Chicago, Mỹ. Cấp trên hỏi tôi, có muốn sang Việt Nam 2 tuần để tập huấn cho nhân viên chi nhánh Arthur Andersen mới mở ở đó không?

Thời điểm đó rất nhiều người bạn của tôi đã lên đường sang Australia hoặc Anh cho khóa tu nghiệp tại nước ngoài (với người New Zealand đây được xem như một nghi lễ trưởng thành). Nhưng tôi muốn đến châu Á có thể giúp tôi thỏa mãn nguyện vọng được tích lũy kinh nghiệm ở đây.

Khi mới đặt chân đến Việt Nam, tôi vẫn chưa thực sự biết mình phải mong đợi điều gì, vì tôi chưa hề có thời gian để tìm hiểu về đất nước này. Hiểu biết ít ỏi của tôi về Việt Nam xuất phát từ 2 người bạn hồi trung học, cũng như từ các bộ phim về đề tài chiến tranh của Hollywood.

Dù với hiểu biết hạn hẹp, song tôi lại có tư duy cởi mở và sẵn sàng tìm hiểu. Và rồi tôi không thể ngờ rằng, con người Việt Nam đã khơi dậy trong tôi một sự thích thú, tạo tiền đề cho phần lớn cuộc đời tôi sau này.

BROOK-TAYLOR.jpg

Tôi nhớ rất rõ tuần đầu tiên ở khách sạn Equatorial (quận 5, TPHCM) vừa khai trương, đây là nơi tôi sẽ tập huấn cho đội ngũ nhân viên người Việt được Arthur Andersen tuyển dụng.

Thái độ chăm chỉ và ham học của họ vượt xa những gì tôi đã tưởng tượng, và thành tích của họ đã thể hiện điều đó. Kết thúc 2 tuần của khóa học, toàn bộ 18 nhân viên mới (cả nhân viên lễ tân cũng tham gia tập huấn) đều vượt qua bài thi sát hạch, dù trước đó không ai có khái niệm gì về nội dung của các môn học. Có một bạn thậm chí còn đạt được mức điểm thuộc Top đầu thế giới, và nay cậu ấy đang là đối tác của một công ty luật quốc tế.

Việt Nam không thiếu quyết tâm

Ngay từ thời điểm đó, tôi đã biết rằng con người Việt Nam không thiếu quyết tâm, năng lượng cũng như vốn tri thức cần thiết để phát triển. Tôi nhớ mình từng đến thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở TPHCM (khi đó có tên Nhà Trưng bày tội ác chiến tranh), và đó là lần đầu tiên tôi được tiếp cận cuộc chiến từ một góc nhìn khác.

Các hiện vật trưng bày tại bảo tàng có phần thiên về mục đích tuyên truyền, kết tội các đế quốc thực dân đã liên tục xâm lược đất nước này trong suốt 150 năm qua. Tôi đã bắt đầu cân bằng lại trước những nhận định phiến diện của phương Tây về Việt Nam. Quan trọng hơn, nó thể hiện một cái nhìn nhân văn với cuộc chiến và cho thấy bản chất khủng khiếp của chiến tranh.

Đến năm 1996, tôi lại sang Việt Nam để đào tạo một khóa sinh viên mới ra trường cho Arthur Andersen. Sau đó bắt đầu từ năm 1997, tôi ký hợp đồng toàn thời gian với công ty.

Tôi và Rebecca, vợ tôi, chuyển đến Việt Nam vào tháng 5 năm đó. Tôi thường thú thật với mọi người rằng, 2 tuần đầu tiên sống ở Việt Nam là khoảng thời gian khó khăn nhất của đời mình. Bản thân công việc không phải là vấn đề, nhưng mọi thứ khác đều quá xa lạ với những gì tôi từng biết. Tôi thực sự đã nghiêm túc nghĩ đến việc quay về nước ngay sau tuần đầu tiên.

Nhiệm kỳ của tôi lẽ ra chỉ kéo dài 2 năm, nhưng kế hoạch thay đổi. Sự nghiệp của tôi đang tiến triển thuận lợi, và tôi cũng thích công việc hiện tại hơn bất kỳ công việc nào mà lẽ ra có thể làm ở một nơi khác. Rebecca và tôi thống nhất với nhau rằng, sẽ ở lại cho đến khi có con.

Kế hoạch lại thay đổi, chúng tôi tiếp tục ở lại Việt Nam cho đến khi cháu nhỏ vào cấp một, rồi vào cấp hai, tất nhiên là đến khi vào cấp ba. Giờ hai đứa con lớn của chúng tôi đang học đại học ở Anh và Australia, còn chúng tôi không cần nghĩ đến chuyện thay đổi chỗ ở nữa.

Phải làm gì đó cho Việt Nam

Thực ra tôi không muốn bắt đầu bằng việc kể về chiến tranh, nhưng hễ cứ nhắc đến 2 chữ "Việt Nam" hầu hết mọi người phương Tây đều nghĩ ngay đến chiến tranh. Với họ, Việt Nam thường là danh từ để chỉ một cuộc chiến (The Vietnam War) hơn là một đất nước.

Tại sao lại như vậy? Phải chăng bởi nước Mỹ đã thua cuộc? Hay bởi truyền thông quốc tế (cả hiện thực và hư cấu) chỉ tập trung vào vết nhơ này và xoáy vào một khía cạnh của câu chuyện?

Hậu quả của nó là Việt Nam ngày nay có lẽ là một trong những quốc gia bị hiểu sai nhiều nhất trên thế giới. Phương Tây cần nhớ rằng, chiến tranh Việt Nam hay “kháng chiến chống Mỹ" (theo cách gọi của người Việt), đã kết thúc gần nửa thế kỷ.

Trong khoảng thời gian dài như vậy, biết bao thay đổi có thể xảy ra và quả thực đã xảy ra. Việt Nam ngày nay không còn là một quốc gia bị chiến tranh tàn phá, phải gồng lên để xây dựng lại từ đống tro tàn. Người Việt Nam cũng không còn giữ mối căm thù sâu sắc với Mỹ và đồng minh vì những gì họ đã làm trong quá khứ.

Việt Nam ngày nay là một quốc gia năng động, đang phát triển mạnh mẽ với gần 100 triệu người lao động chăm chỉ và khao khát vươn lên, những người có cuộc sống đang ngày một trở nên tốt đẹp và thành công hơn.​

Tóm lại, những người không có kinh nghiệm thực tế sẽ khó hiểu đúng về Việt Nam của ngày hôm nay, khi mà những định kiến như trên vẫn còn tồn tại. Đó là lý do đầu tiên khiến tôi muốn viết cuốn sách “Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á”. Bởi rất cần có ai đó giới thiệu và giải thích cho những người không sống trong đất nước này, biết về một Việt Nam ở hiện tại và tương lai mà họ sẽ hướng tới.

Tin vào tương lai Việt Nam

Lý do thứ hai khiến tôi muốn viết cuốn sách này trở nên rõ nét hơn, sau khi thảo luận với những đồng nghiệp và bạn bè người Việt về một số ý tưởng của cuốn sách. Trong khi trò chuyện, tôi nhận thấy nhiều người trẻ Việt Nam chưa thực sự biết về tiềm năng cũng như hướng đi của đất nước họ.

Khi nói về tương lai của đất nước, họ thường đưa ra những nhận định ngắn hạn. Thêm vào đó, nhiều người còn thiếu kinh nghiệm quốc tế phù hợp, khiến các đánh giá của họ trở nên thiếu sức nặng, thậm chí thường bị coi là không đủ khách quan, bất kể nó đúng hay sai.

Điều này tạo ra một thực tế trớ trêu, là để một cuốn sách được độc giả Việt Nam tin tưởng, nó lại cần những người nước ngoài đã có thời gian sống và làm việc tại đất nước này viết nên.

Tôi không phải chuyên gia kinh tế, nhân chủng học, xã hội học, sử học hay bất kỳ lĩnh vực nào được đề cập trong cuốn sách này. Trình độ tiếng Việt của tôi cũng không tốt lắm. Nhưng tôi có hiểu biết và kinh nghiệm của hơn 25 năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam.

Khi viết cuốn sách này, Sam Korsmoe(*) và tôi đã cố gắng trình bày một cách hết sức đơn giản về Việt Nam hiện tại và tương lai. Phần lớn nội dung chúng tôi giới thiệu đều dựa trên thuyết đáng tin cậy, qua lời kể của các nhân vật được phỏng vấn và những gì mình quan sát được.

Do đó, một số người có thể sẽ không xem cuốn sách này là nguồn tham khảo, nhưng chúng tôi hy vọng mình đã đưa ra những kết luận hợp lý và độc giả sẽ thấy chúng trở thành sự thật trong tương lai.

Chúng tôi bắt tay viết khi Covid-19 bùng phát và hoàn thành khi đại dịch đã qua đi. Dù nhiều quốc gia cũng thành công trong việc đối phó với Covid-19, đồng thời nhận được sự ca ngợi của truyền thông quốc tế hơn. Song việc Việt Nam có thể vượt qua giai đoạn tồi tệ nhất của đại dịch, cũng chính là bằng chứng khẳng định năng lực hành động của Chính phủ và quyết tâm của người dân trong việc góp sức vì lợi ích chung.

Nếu có điều gì chúng tôi muốn độc giả hiểu được thông qua cuốn sách này, đó chính là những hành động của Việt Nam trong 2 năm đại dịch và những kết quả họ đạt được. Việt Nam đã sẵn sàng trở thành con rồng kinh tế mới của châu Á.

-------------------

(*) Sam Korsmoe là người Mỹ, ông sinh sống và làm việc tại Việt Nam 20 năm, với tư cách là một nhà báo, nhà văn, giáo viên, doanh nhân và tác giả sách. Ông nói thành thạo tiếng Việt và từng viết luận văn Thạc sĩ về đề tài đổi mới ở Việt Nam.

Trong hơn 25 năm qua, Việt Nam đã là một trong những nền kinh tế năng động nhất thế giới xét về tăng trưởng GDP, thương mại, đầu tư và các chỉ số kinh doanh khác. Vấn đề là liệu đà tăng trưởng này có tiếp tục thêm 25 năm nữa không. Nếu có, Việt Nam sẽ trở thành một xã hội hình mẫu có thu nhập cao như Hàn Quốc và Đài Loan, vốn là 2 con rồng kinh tế đầu tiên của châu Á.

Tác giả Brook Taylor đã tìm hiểu và phân tích nhiều động lực đa dạng để thử đưa ra một kịch bản khả dĩ cho tương lai của Việt Nam. Và “Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á” chính là kết quả của những nỗ lực ấy.

GS danh dự CARLYLE A. THAYER, Đại học New South Wales, Australia

Các tin khác