Đó là nội dung Tọa đàm “Làm thế nào để có vùng đất văn học?” vừa được tổ chức tại Phú Yên với sự tham dự của nhiều nhà văn tên tuổi khắp cả ba miền như Nguyễn Trí Huân, Ngô Vĩnh Bình, Lê Thành Nghị, Nguyễn Bình Phương, Bích Ngân, Trình Quang Phú, Huỳnh Thạch Thảo, Nguyễn Thu Phương, Bùi Anh Tấn.
Vùng đất văn học, không phải khái niệm xa lạ, nhưng không phải ai cũng đánh giá đầy đủ giá trị của vùng đất văn học. Đối với một người cầm bút, trong lòng luôn hiện diện một vùng đất để làm nơi nương tựa hoặc để làm nguồn cảm hứng cho hành trình sáng tạo. Vùng đất ấy, có thể là chốn chôn nhau cắt rốn, có thể là chốn hẹn hò tình duyên, và cũng có thể chỉ là chốn nhung nhớ xa vời của một lần đặt chân đến và vương vấn khôn nguôi.
Một vùng đất thường xuyên xuất hiện trong tâm tưởng và không phải tình cờ bước vào trang viết, chính là vùng đất văn học của tác giả. Vùng đất văn học có tên gọi cụ thể, có cảnh sắc cụ thể hoặc chỉ là những bóng cây, những dáng người, nhưng khi chạm bút vào vùng đất văn học, tác giả phô diễn được sở trường tốt nhất và có những tác phẩm ưng ý nhất. Có vùng đất văn học gắn bó máu thịt với tác giả, khiến họ trở thành sứ giả văn hóa và đời sống của một địa phương.
Trong văn chương hiện đại Việt Nam, có thể kể đến một số trường hợp như Tô Hoài với Hà Nội, Sơn Nam với sông nước miệt vườn, Nguyên Ngọc với Tây nguyên, Nguyễn Văn Xuân với Quảng Nam, Hoàng Văn Bổn với Đồng Nai, Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế, Lê Văn Thảo với An Giang, Nguyễn Ngọc Tư với Cà Mau…
Từ vùng đất văn học của các tác giả, đã hình thành vùng đất văn học của công chúng. Biên độ mở của vùng đất văn học được xác lập nhờ 2 yếu tố, thứ nhất quy tụ một đội ngũ tác giả đông đảo, thứ hai thông qua tác phẩm văn học để công chúng thêm yêu mến vùng đất được tác giả đề cập. Ở Việt Nam hiện tại có bao nhiêu vùng đất văn học? Xưa nay, muốn tìm trạng nguyên hoặc danh sư, phải đến kinh thành.
Những đô thị trung tâm như Hà Nội, TPHCM cũng là vùng đất văn học với hàng trăm tác giả đang sinh sống và sáng tác. Những vùng đất đã được bồi đắp văn hóa lâu đời như Nghệ An, Huế cũng là vùng đất văn học. Ngoài ra, những vùng đất có cơ duyên đặc biệt sản sinh những tài năng vượt trội, hoặc tạo ra những trào lưu văn học và hình thành dòng chảy văn học riêng như Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, An Giang... cũng là vùng đất văn học.
Tuy nhiên, có những vùng đất văn học của tác giả, nhưng chưa đủ sức hút tạo thành vùng đất văn học của công chúng. Đó là những lát cắt tình cờ của sáng tạo, như “Sa Pa lặng lẽ” của Nguyễn Thành Long, “Em Pleiku má đỏ môi hồng” của Vũ Hữu Định. Và có những vùng đất nổi tiếng đã có “thương hiệu địa phương” để thu hút mọi người, nhưng vẫn chưa thể trở thành vùng đất văn học như Cần Thơ, Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang… vì những hoạt động văn chương ở đây vẫn cầm chừng và manh mún. Theo thăng trầm lịch sử, có những vùng đất văn học trong quá khứ đã mai một dần đi như Hà Tiên. Ngược lại, có những vùng đất đang vận động trở thành vùng đất văn học như Phú Yên.
2. Vùng đất văn chương là chỉ dấu đáng tin cậy cho sức sống văn hóa của một địa phương. Hãy nhớ, để xây dựng hạ tầng vật chất cho một địa phương chỉ cần nguồn lực tài chính và thời gian 10 năm hoặc 20 năm. Thế nhưng, để xây dựng phẩm chất văn hóa cho một địa phương, phải mất thời gian gấp 10 lần, và không chỉ cần nguồn lực tài chính, mà đòi hỏi thêm ý thức trách nhiệm của cộng đồng.
Lý giải vì sao trung tâm kinh tế sôi động như TPHCM cũng là một vùng đất văn học, nhà văn Bích Ngân đánh giá: “Vùng đất văn học không phải khái niệm tách rời khỏi các hoạt động thương mại - tài chính của TPHCM. Ngược lại, chính đời sống văn học làm đậm đà thêm bản sắc nghĩa tình, hào hiệp, sáng tạo của TPHCM hôm nay. Không bị cạnh tranh và cũng không chịu áp lực từ những loại hình nghệ thuật sôi động khác như âm nhạc, điện ảnh, sân khấu... văn học TPHCM đặt nền tảng trên sự cởi mở và sự gắn kết. Cho nên vùng đất văn học TPHCM được thiết lập một cách tự nhiên và bền vững”.
Làm sao để có một vùng đất văn học? Đầu tiên phải xuất phát từ tình cảm và nỗ lực của tác giả. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh luôn dùng bối cảnh hoặc địa danh của cố hương Thăng Bình, Quảng Nam để đưa vào tác phẩm, như quán Gò, chợ Đo Đo, thậm chí nhân vật Hà Lam được đặt theo tên gọi thị trấn, nhân vật Trà Long được đặt theo tên làng... Vùng đất văn học không thể chờ đợi vào sự may rủi.
Muốn có vùng đất văn học, rất cần những chính sách của địa phương đầu tư phát triển văn học, cũng như tích cực vận động và tạo điều kiện cho tư nhân tham gia vào các hoạt động kiến tạo không gian sáng tác văn chương. Thí dụ tỉnh Thái Bình không chỉ là “quê hương năm tấn” mà còn là một vùng đất văn học với truyền thống xem trọng chữ nghĩa được tiếp nối. Có danh nhân Lê Quý Đôn làm “trấn sơn chi bải” và có cả công trình “10 thế kỷ văn chương Thái Bình” quy mô, tỉnh Thái Bình còn cấp đất, hỗ trợ kinh phí để hình thành địa chỉ văn học “Bảo tàng tác phẩm hậu chiến tranh Minh Chuyên” rất hoành tráng.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho rằng: “Dù nguồn gốc hình thành như thế nào, tôi nghĩ điều quan trọng nhất để duy trì vùng đất văn học chính là niềm tin chân thành của chúng ta. Trong văn chương nghệ thuật, tôi cho rằng, chân thành - nhắc thì thừa nhưng không nhắc thì thiếu”.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương cũng nhắc đến làng Cao Mật vốn là một địa danh bình thường đã trở thành vùng đất văn học của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn, người đã đạt giải Nobel văn học năm 2012. Nhà văn Mạc Ngôn thổ lộ: “Tôi cần phải thừa nhận rằng trong quá trình sáng lập lãnh địa văn học “Làng Đông Bắc Cao Mật”, nhà văn Mỹ William Faulkner và nhà văn Columbia Garcia Marquez đã đem lại cho tôi những gợi ý quan trọng.
Tuy tôi chưa đọc kỹ các tác phẩm của họ nhưng khí phách hào hùng khai sơn phá thạch của 2 ông đã khích lệ tôi, khiến tôi hiểu được rằng mỗi nhà văn phải có mảnh đất của riêng mình. Trong đời sống hàng ngày, người ta cần khiêm tốn nhún nhường, nhưng trong sáng tác văn học lại phải tự tin tới mức quá đáng, phải độc đoán chuyên quyền. Việc tôi cần làm thực ra rất đơn giản, đó tức là dùng phương cách của mình kể câu chuyện của mình.
Đây là cách người thuyết thư dùng ở ngoài chợ mà tôi đã thuộc lòng, là cách kể chuyện của ông bà tôi, của các già làng. Nói thẳng ra, khi kể chuyện tôi không nghĩ tới việc ai là thính giả của mình. Có lẽ thính giả của tôi là những người như mẹ tôi, cũng có lẽ chính là tôi, là câu chuyện của tôi, ban đầu là trải nghiệm thiết thân của tôi”.