Trật tự toàn cầu hóa
Sự bùng nổ và phát triển của công nghệ thông tin càng khiến thế giới xích lại gần nhau hơn. Các tập đoàn tận dụng những khác biệt giữa các quốc gia để giảm chi phí sản xuất và giá thành. Từ đó, các chuỗi cung ứng xuyên quốc gia được hình thành, và gần như không nước nào có thể tách mình ra khỏi mạng lưới trao đổi, giao dịch xuyên quốc gia, với nhiều chuỗi đan xen lẫn nhau.
Toàn cầu hóa đã làm thay đổi hiện trạng của thế giới, với các quyết định kinh doanh dựa trên những nguyên tắc của kinh tế thị trường được áp dụng trên phạm vi toàn cầu.
Một hệ quả dễ thấy của công cuộc toàn cầu hóa, là khó tìm được sản phẩm nào người dân ở các quốc gia trên thế giới tiêu thụ hàng ngày có nguồn gốc hoàn toàn từ trong nước. Chỉ cần bất cứ công đoạn nào có biện pháp cắt giảm chi phí không ảnh hưởng đến chất lượng, không phân biệt nguồn gốc, vị trí địa lý, là có thể được áp dụng để giúp làm giảm giá thành. Đây cũng là quy luật của kinh tế thị trường các nước phát triển luôn đem làm tôn chỉ, làm chuẩn mực trong thương mại quốc tế, với giá cả và chất lượng là những yếu tố then chốt quyết định thị phần.
Các quốc gia muốn sản phẩm quốc nội của mình đứng vững, trong đó có Việt Nam, phải tìm giải pháp nâng cao chất lượng mà vẫn giữ giá cả phải chăng để giữ chân khách hàng trong nước, đồng thời quảng bá sản phẩm của mình ra nước ngoài.
Đây có thể xem như là một trật tự, hay luật chơi ai cũng phải tuân theo trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng và quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên thế giới với nhau ngày càng thắt chặt. Mối liên kết ngày càng chặt chẽ này đã và đang đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia, doanh nghiệp và người dân trên toàn thế giới.
Việt Nam không chỉ xuất khẩu nhiều mặt hàng ra các nền kinh tế lớn, còn có thể tiếp cận được nhiều loại hàng hóa, dịch vụ chất lượng từ ngoài nước để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu ngày càng gia tăng của người dân, nhờ đà phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, những mối liên kết chằng chịt, đan xen lẫn nhau của nền kinh tế toàn cầu hóa cũng tồn tại bất cập. Đó là dù mạng lưới có bền chặt đến đâu, chỉ cần một sợi dây liên kết đứt gãy là có thể khiến cả mạng lưới tê liệt, sụp đổ. Một biến cố hay quyết định không liên quan đến kinh tế có thể gây hiệu ứng rộng khắp, không chỉ gói gọn trong một quốc gia.
Thí dụ, vụ khủng bố ngày 11-9-2001 tại Mỹ khiến hàng loạt chuyến bay bị đình lại với lý do an ninh. Giao thông đường bộ và đường hàng hải cũng chịu ảnh hưởng do đóng cửa biên giới. Tình trạng này khiến việc vận chuyển xuyên quốc gia bị tê liệt, không thể giao hàng kịp thời, dẫn đến hậu quả chuỗi cung ứng bị tắc nghẽn.
Thế giới bất ổn và phi thị trường hóa
Thế giới bất ổn và phi thị trường hóa
Cuộc khủng hoảng này hoàn toàn do bàn tay con người tạo ra, làm méo mó thương mại quốc tế, xáo động trật tự toàn cầu hóa và phi thị trường hóa thế giới. |
Việt Nam cũng phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng khi làn sóng biến thể Delta nổi lên trong năm 2021, khiến các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước bị thiệt hại nặng nề.
Khi dịch Covid-19 tái bùng phát với quy mô lớn ở Trung Quốc, Thượng Hải, thương cảng lớn là một trong những tâm điểm của đợt dịch mới. Chính sách giới nghiêm ngăn chặn lây lan Covid-19 bằng mọi giá đã khiến hoạt động ở thương cảng này bị ách tắc, tác động lên chuỗi cung ứng toàn cầu, từ Tesla tới Apple.
Đại dịch cũng khiến các nước tìm cách vực dậy kinh tế bằng cách ban hành các gói kích thích, làm tăng cung tiền và dấy lên quan ngại về nguy cơ lạm phát gia tăng ngoài tầm kiểm soát khi nền kinh tế phục hồi. Dù Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) trấn an dư luận rằng tình trạng lạm phát sẽ chỉ mang tính tạm thời, lạm phát ở Mỹ liên tục gia tăng, từ 5,4% trong tháng 9-2021 lên 8,5% vào tháng 3-2022 và chưa có dấu hiệu thuyên giảm.
Ngoài yếu tố dịch bệnh, xung đột Nga - Ukraine cũng đang đe dọa trật tự của nền kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc xung đột đã gây ra tác động không hề nhỏ lên kinh tế thế giới. Mỹ và các quốc gia châu Âu tung ra hàng loạt biện pháp trừng phạt quy mô lớn trên nhiều phương diện, từ kinh tế, thương mại đến cả văn hóa, thể thao để cô lập Nga trên trường quốc tế.
Trong đó có việc đóng băng tài khoản của các tổ chức, cá nhân Nga hoạt động ở các quốc gia nói trên. Điều này khiến các công ty Nga không thể thu về và sử dụng lợi nhuận bằng ngoại tệ thu được từ hoạt động kinh doanh tại các quốc gia đó, như thu nhập từ xuất khẩu khí đốt sang các nước châu Âu.
Thậm chí, các nước tham gia cấm vận và loại Nga ra khỏi hệ thống thanh toán toàn cầu (SWIFT), như là biện pháp tăng cường để cô lập Nga về tài chính. Đồng thời, các nước cũng tìm cách hạn chế sử dụng nhiên liệu từ Nga, trong đó có việc cấm hoàn toàn nhập khẩu dầu thô. Để đối phó tình trạng này, Nga quyết định chuyển đơn vị tiền tệ thanh toán khí đốt sang đồng rúp, áp dụng cho những quốc gia “không thân thiện”, và sẽ ngừng cung cấp khí đốt cho những nước nào không đồng ý với đề xuất trên.
Bất ổn do xung đột, cộng thêm những chính sách trừng phạt, theo nhiều đánh giá mang nặng yếu tố chính trị hơn là lợi ích quốc gia, của các nước phương Tây đã gây ra chuỗi biến cố khiến giá dầu tăng mạnh. Sức ép giá năng lượng gây ảnh hưởng không nhỏ lên đời sống người dân các nước tham gia cấm vận, nhất là các nước châu Âu, vốn dựa nhiều vào nguồn năng lượng giá rẻ nhập khẩu từ Nga. Giá dầu gia tăng cũng kéo theo chi phí sản xuất, vận chuyển, góp phần làm tình hình lạm phát nghiêm trọng hơn.
Ngoài năng lượng, chiến sự Nga - Ukraine cũng dẫn đến tình trạng khan hiếm lương thực, thực phầm, không chỉ do Ukraine được xem là rổ bánh mì của châu Âu, còn vì các lệnh cấm xuất nhập khẩu giữa Nga và các nước cấm vận Nga. Trong các lệnh cấm này bao gồm cả các mặt hàng nông sản, máy móc nông nghiệp và phân bón, gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu đầu vào phục vụ cho việc chế biến thực phẩm.
Hiện Việt Nam cũng đang phải tìm cách thích ứng với tình trạng khan hiếm phân bón. Ngoài ra, do lo ngại khủng hoảng chính trị lan rộng, một số nước như Serbia, Kazakhstan đã áp đặt hạn ngạch lên các mặt hàng thóc lúa.
Trong khi nền kinh tế các nước châu Âu đang gặp khó khăn do chịu ảnh hưởng nặng nề từ Covid-19, chính phủ các nước này lại tiên phong trong công cuộc cấm vận Nga. Theo thống kê của Bloomberg, tính đến thời điểm này, các nước EU cấm vận 490 đối tượng Nga (trong khi Mỹ chỉ có 118). Các lệnh hạn chế, cấm thương mại với Nga tạo ra tình trạng khan hiếm năng lượng lẫn lương thực, thực phẩm, góp phần làm lạm phát trầm trọng hơn.
Ngoài ra, các biện pháp cô lập Nga về mặt tài chính cũng khiến chính công dân các nước tham gia cấm vận bị thiệt hại do không thể làm ăn với Nga. Những diễn biến, hậu quả như trên xảy ra đến từ việc thị trường đã bị bóp méo do các chính sách cấm vận.
Việt Nam đứng vững trong thế giới mới
Trải qua nhiều năm Việt Nam hay bị đánh giá là nền kinh tế “phi thị trường”, bị cáo buộc thực hiện các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để làm lợi cho bản thân. Chẳng hạn như bán phá giá các mặt hàng xuất khẩu (cá tra, cá basa…) cho đến thao túng tiền tệ, hay bất cứ chính sách, hành động nào gây bất lợi cho những quốc gia cáo buộc, được coi là hình mẫu của “kinh tế thị trường”. Dù gặp không ít trở ngại và định kiến, Việt Nam đã và đang từng bước tiếp tục tiến trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực, trong đó có thương mại.
Vậy trong bối cảnh thế giới đang có xu hướng thay đổi, thậm chí đảo ngược trật tự toàn cầu hóa, liệu Việt Nam phải thích nghi để tồn tại? Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao đa phương, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, tăng hợp tác kinh tế, thương mại với các nước trên thế giới, một thế giới có xu hướng thay đổi từ đơn cực thành đa cực có thể có lợi cho Việt Nam.
Tuy nhiên, để kiên trì theo đường lối trên, chúng ta phải có nội lực kinh tế, từ đó củng cố vị thế của mình trên trường quốc tế, tránh phụ thuộc vào bất cứ siêu cường nào. Để có nội lực kinh tế, chúng ta không thể chỉ chăm bẵm vào các lĩnh vực “dễ kiếm tiền” như thị trường chứng khoán hay bất động sản, hiện đang lộ ra nhiều vấn đề tiêu cực và về bản chất không tạo ra thêm của cải vật chất.
Việt Nam phải chú trọng nhiều hơn vào các ngành công nghiệp sản xuất, những ngành có thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Việc này sẽ góp phần tạo ra thêm giá trị thực, gia tăng nội lực và củng cố sự tự chủ của nền kinh tế nước nhà.
Một quốc gia chỉ dựa vào các lĩnh vực “tiền đẻ ra tiền” để tăng con số GDP, không thể tự sản xuất vật chất hữu hình, sẽ bị rơi vào khủng hoảng khan hiếm trầm trọng khi có biến cố xảy ra. Do đó, trong bối cảnh thế giới đang bất ổn, quá trình toàn cầu hóa đang chững lại và manh nha một trật tự thế giới mới, Việt Nam cần có sự tự cường về kinh tế, từ đó giữ vững vị thế của mình trên trường quốc tế.
Một quốc gia chỉ dựa vào các lĩnh vực “tiền đẻ ra tiền” để tăng con số GDP, không thể tự sản xuất vật chất hữu hình, sẽ bị rơi vào khủng hoảng khan hiếm trầm trọng khi có biến cố xảy ra. |