DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bài 1: 'Lột xác' để 'gánh vác' vai trò dẫn dắt

(ĐTTCO) - Từ năng lượng, lương thực đến hạ tầng chiến lược, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, trong đó vai trò dẫn dắt nền kinh tế của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là không thể thay thể.

Bài 1: 'Lột xác' để 'gánh vác' vai trò dẫn dắt

Vai trò dẫn dắt không thể thay thế

Theo số liệu của Cục Phát triển DNNN (Bộ Tài chính), trong các năm qua DNNN liên tục được cơ cấu lại, giảm mạnh về số lượng. Đến nay cả nước có 866 DN có vốn nhà nước do 49 bộ, ngành, địa phương thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại DN.

Cụ thể, có 214 DNNN do 15 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là cơ quan đại diện chủ sở hữu; 652 DN do 34 UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan đại diện chủ sở hữu.

Xét theo tỷ lệ vốn Nhà nước nắm giữ, có 500 DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (151 DN thuộc 13 bộ, ngành và 349 DN thuộc 34 địa phương); 203 DN do Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ (36 DN thuộc 10 bộ, ngành và 167 DN thuộc 32 địa phương); 163 DN do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống (27 DN thuộc 9 bộ, ngành và 136 DN thuộc 32 địa phương).

Về quy mô vốn, tính đến cuối năm 2024, các DN có vốn Nhà nước (không tính 4 ngân hàng thương mại Nhà nước) đang quản lý tổng tài sản có giá trị hơn 4,3 triệu tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu hơn 1,9 triệu tỷ đồng, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hơn 400.000 tỷ đồng/năm.

Xét về tổng thể, theo số liệu của Cục Thống kê, các DNNN có quy mô tổng tài sản và nguồn vốn chủ sở hữu thấp hơn so với khu vực DN ngoài Nhà nước (trung bình giai đoạn 2017-2023 chỉ đạt khoảng 23% tổng tài sản và hơn 15% tổng nguồn vốn của toàn bộ DN), nhưng nộp ngân sách trung bình đạt hơn 34% tổng thu ngân sách.

Hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) của DNNN xu hướng tăng dần, năm 2017 chỉ đạt 11% thì đến năm 2024 đạt 13%, cao nhất khu vực DN. Hiệu suất sinh lời trên tài sản (ROA) của DNNN năm 2024 đạt mức 6%, cao hơn khối DN FDI (khoảng 4%) và khối DN tư nhân (khoảng 1%).

Quy mô và tốc độ tăng trưởng của DNNN được đánh giá tốt, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn tốc độ tăng trưởng tài sản và vốn chủ sở hữu.

Về lĩnh vực hoạt động, DNNN hoạt động trong các ngành, lĩnh vực then chốt, chiến lược của nền kinh tế. Trong đó trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiếp tục đóng vai trò chi phối, chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực có tính chất thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

DNNN cũng là công cụ quan trọng để thực hiện ổn định nền kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động của thị trường, kiềm chế lạm phát, bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền; tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội, bình ổn giá, phát triển kinh tế gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Những hạn chế cần khắc phục

Theo bà Nguyễn Thu Thủy, Phó Cục trưởng, Cục Phát triển DNNN, thực tế cho thấy vai trò trong dẫn dắt, tạo động lực cho các DN thuộc các thành phần kinh tế phát triển và thúc đẩy liên kết, hình thành chuỗi giá trị gia tăng của DNNN còn hạn chế.

Hiện nay chỉ một số tập đoàn, tổng công ty lớn hoạt động trong những ngành có ảnh hưởng quyết định đến việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, dẫn dắt quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế như công nghệ lõi, công nghệ số, các ngành năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và các ngành chứa đựng giá trị khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Còn lại hầu hết các DNNN còn lại hoạt động trong ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu nhưng vận hành theo phương thức khép kín, chưa tạo nhiều điều kiện để DN khác tham gia vào chuỗi sản xuất, tiêu thụ.

Trong khi đó, nguồn lực về vốn, tài sản của DNNN vẫn chưa được khơi thông do quy định về phân công, phân cấp, phân quyền quyết định đầu tư chưa trao quyền tự chủ cho DN đối với các quyết định đầu tư lớn, các quyết định mang tính rủi ro.

Việc đầu tư trở lại của Nhà nước cho DN còn hạn chế và chưa kịp thời, do phạm vi đầu tư vốn bị bó hẹp, trình tự, thủ tục còn rườm rà, phức tạp, dẫn đến khả năng cạnh tranh không theo kịp xu hướng phát triển nói chung.

Theo đánh giá của đại diện Bộ Tài chính, tính chủ động, cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNNN còn hạn chế. Đơn cử như thủ tục ra quyết định của DNNN còn phức tạp dẫn đến mất cơ hội đầu tư, kinh doanh. Đối với một số nội dung, DNNN phải chờ ý kiến chấp thuận hoặc phê duyệt của cơ quan đại diện chủ sở hữu và các cơ quan có liên quan, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh của DN.

Cùng với đó, công tác đổi mới quản trị DN còn chậm, chưa tiệm cận với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Việc tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN còn nhiều bất cập; quá trình quyết toán cổ phần hóa chưa đảm bảo thời gian, còn để kéo dài tại một số DN sau cổ phần hóa; tiến độ triển khai cổ phần hóa, thoái vốn chậm, không đạt yêu cầu kế hoạch đề ra.

Trong bối cảnh mục tiêu đặt ra trong giai đoạn tới nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030; trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045; duy trì tốc độ tăng trưởng “2 con số” trong giai đoạn 2026-2030; triển khai có hiệu quả các nghị quyết “trụ cột” về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, về hội nhập quốc tế trong tình hình mới…

Tất cả đòi hỏi phải có những cải cách và biện pháp thúc đẩy tăng trưởng đột phá đối với DNNN, cơ cấu lại khu vực này theo hướng tinh gọn, hiệu quả để DNNN thực sự phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt trong các ngành lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế.

Hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Các tập đoàn, tổng công ty mặc dù đã rất nỗ lực triển khai các dự án đầu tư mới, nhưng hiệu quả vẫn chưa tương xứng với nguồn lực được giao nắm giữ. Một số DN vẫn còn tình trạng thua lỗ kéo dài, rơi vào tình trạng mất an toàn tài chính.

Các tin khác