Phần lớn các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam được dẫn dắt bởi các DN có vốn đầu tư nước ngoài, liệu sự cố căng thẳng về địa chính trị gần đây với Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến triển vọng xuất khẩu? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi nghiên cứu sâu hơn về đầu tư, đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò lớn trong việc tăng trưởng bền vững của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là khi khối đầu tư công và tư trong nước đang giảm. Điều này phần nào phản ánh quá trình cải cách đang diễn ra khi Chính phủ cố gắng giảm thiểu sự kém hiệu quả của đầu tư công và đầu tư của các DN quốc doanh. Khối DN tư nhân đang trong quá trình thoái nợ khiến nhu cầu đầu tư cũng yếu hơn. Dòng vốn FDI vào Việt Nam đã giúp làm giảm các tác động tiêu cực lên quá trình tăng trưởng.
Số vốn FDI vào Việt Nam khá lớn so với GDP, tỷ lệ đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư. Trong số vốn FDI đang có ở Việt Nam, đa phần đến từ các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Đài Loan. Tuy vốn FDI đăng ký từ Trung Quốc tăng lên trong những năm gần đây nhưng tổng vốn đầu tư từ Trung Quốc còn nhỏ.
Vì thế mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc đơn thuần là mối quan hệ chuỗi cung ứng cấp 1 hơn là mối quan hệ đầu tư. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Phần lớn hàng hóa nhập từ Trung Quốc dùng làm nguyên liệu cho sản xuất dệt may như vải sợi, bông và máy móc. Tuy nhiên hàng tiêu dùng nhập khẩu từ Trung Quốc cũng khá lớn.
Vì thế, có thể thấy tác động kinh tế ngắn hạn từ căng thẳng địa chính trị sẽ tương đối hạn chế, nhưng với một số ngành như dịch vụ du lịch sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Du khách đến từ Trung Quốc hiện đang chậm lại, nhưng chúng tôi dự đoán lượng du khách này sẽ trở lại con số bình thường trong những tháng tới. Các nhà đầu tư chính vẫn không thay đổi và vốn FDI vẫn có xu hướng vào Việt Nam.
Trong khi chưa thể đánh giá đầy đủ về sự tác động dài hạn, nhiều khả năng các nhà sản xuất tại Việt Nam sẽ cố gắng nội địa hóa nguyên liệu đầu vào để tăng cường quản lý chuỗi cung ứng của mình và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu từ Trung Quốc cũng như đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định TPP.
![]() |
Sản xuất ổ cứng tại Công ty Greystone Data Systems Vietnam (100% vốn Hoa Kỳ) |
Từ lâu chúng tôi đã lập luận rằng các nước Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là Việt Nam và Indonesia, nhiều khả năng hưởng lợi từ sự dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc của các công ty sản xuất cần sử dụng nhiều lao động như là sự đa dạng hóa đầu tư. Các thị trường này hấp dẫn không chỉ bởi chi phí lao động mà còn ở tiềm năng tăng trưởng của họ.
Tuy nhiên, FDI chỉ mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển dựa trên tính hiệu quả, không phải nguồn vốn FDI nào cũng như nhau. Nhìn lại các phân tích về các tác động của FDI lên sự phát triển cho thấy FDI sản xuất, đặc biệt các ngành tuyển dụng nhiều lao động địa phương, là nguồn vốn đem lại nhiều lợi ích nhất. Quốc gia chủ nhà có thể sẽ không tạo được cú hích dài hạn nếu họ chỉ tìm cách thu hút FDI mà bỏ qua việc cân nhắc lợi ích của nó với nền kinh tế địa phương.
Chỉ một số ít quốc gia có thể phát triển kinh tế chỉ dựa trên đầu tư nước ngoài. Tài liệu về FDI cũng cho thấy cần nhiều nỗ lực từ trong nước để thúc đẩy sự liên kết. Điều này có nghĩa là các khoản đầu tư trong nước trong thời gian tới cần phải hiệu quả hơn nữa để giảm sự phụ thuộc vào FDI.
Giao thương giữa Trung Quốc và Việt Nam
Nhìn từ góc độ tăng trưởng, tác động ngắn hạn của những sự kiện gần đây sẽ tương đối ít. Ngành sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất là dịch vụ du lịch, dù rằng ảnh hưởng này chỉ là tạm thời. Ở các nơi khác, du khách Trung Quốc đã chiếm tỷ lệ ngày càng cao hơn trong tổng số du khách, do thu nhập của họ được cải thiện. Tính từ đầu năm đến nay, tổng số khách Trung Quốc du lịch đến Việt Nam tăng 26,1%. Chúng tôi dự đoán con số này sẽ giảm trong tháng 6 nhưng sẽ trở lại bình thường trong tháng 7.
Trong khi vẫn còn khá sớm để đưa ra kết luận, sự ảnh hưởng về dài hạn của tình hình căng thẳng chỉ được phân tích tốt nhất qua mối quan hệ giao thương của 2 nước. Xuất khẩu từ Việt Nam qua Trung Quốc chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012. Các nguyên vật liệu thô như cao su, dầu thô, than đá và trái cây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Là một đối tác xuất khẩu quan trọng, mối quan hệ giao thương giữa Việt Nam với Trung Quốc mạnh hơn ở chiều nhập khẩu bởi nhiều nguyên vật liệu sản xuất của Việt Nam được nhập từ Trung Quốc. Nguyên nhân là do Việt Nam sử dụng nhân công giá rẻ và đất đai màu mỡ là yếu tố cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các nhà lập pháp Việt Nam quan ngại về tỷ lệ ít nguyên liệu nội địa dùng cho sản xuất nhưng họ chỉ mới áp dụng vài biện pháp cứng rắn để khắc phục điều này.
Sự kiện gần đây cho thấy nhiều khả năng sẽ tác động đẩy nhanh tiến trình cải cách chính sách để gia tăng nội lực trong việc liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngành dệt may và may mặc đặt chỉ tiêu đạt mức nội địa hóa 60% vào năm 2015. Chưa thể nói liệu mục tiêu này sẽ đạt được hay không. Tuy nhiên, nỗ lực này là cần thiết cho Việt Nam trong việc a) giảm sự phụ thuộc vào việc nhập nguyên liệu đầu vào; b) đáp ứng yêu cầu của TPP, đòi hỏi tỷ lệ nội địa hóa cao hơn cho các mặt hàng xuất khẩu. Vinatex, một công ty quốc doanh, đã tuyên bố đặt mục tiêu xây dựng khu công nghiệp vải sợi trị giá 400 triệu USD trong năm nay.
Điểm sáng trong tình hình này có lẽ là Chính phủ Việt Nam sẽ đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế. Rõ ràng trái banh đang nằm trên sân của Chính phủ. Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm lãi suất để hỗ trợ lực cầu trong nước. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng từ đầu năm đến tháng 5 chỉ mới ở mức 1,3%.
Chúng tôi tin tình hình cho vay sẽ tăng lên vào nửa cuối năm 2014. Nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ giữ lãi suất cho vay trên thị mở ở mức 5%/năm đến cuối năm. Tuy nhiên, vấn đề của Việt Nam không phải ở lãi suất mà ở cơ cấu của nền kinh tế. Chúng tôi tin cơ cấu nền kinh tế sẽ trở nên tinh gọn và hiệu quả hơn để tăng tính cạnh tranh trong tương lai.