Cần động lực phát triển mới

(ĐTTCO) - Tại hội thảo bàn về "Động lực phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến 2035", nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, PGS.TS Lê Xuân Bá chua chát: “Thời gian qua, Việt Nam chạy nhanh, nhưng nhiều nước còn chạy nhanh hơn. Chính vì vậy, tụt hậu về kinh tế không chỉ còn là nguy cơ, mà đã hiện hữu và đang trong xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn so với nhiều nước”.

(ĐTTCO) - Tại hội thảo bàn về "Động lực phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến 2035", nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, PGS.TS Lê Xuân Bá chua chát: “Thời gian qua, Việt Nam chạy nhanh, nhưng nhiều nước còn chạy nhanh hơn. Chính vì vậy, tụt hậu về kinh tế không chỉ còn là nguy cơ, mà đã hiện hữu và đang trong xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn so với nhiều nước”.

 

Thực tế, giai đoạn 1991-2010, Việt Nam đã trở thành điểm sáng phát triển kinh tế của khu vực và cả thế giới. Trong vòng 20 năm, tăng trưởng bình quân năm đạt 7,43%. Với thành quả đó, Việt Nam đã vượt qua 2 cửa ải quan trọng: Thoát khỏi suy thoái kinh tế triền miên trong nhiều năm liền và đứng vào danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp (năm 2008). Tuy nhiên, bước sang giai đoạn 2011-2015, kinh tế bắt đầu có nhiều dấu hiệu suy giảm, tăng trưởng GDP bình quân năm chỉ còn 5,9%, thấp hơn nhiều so với kế hoạch đặt ra 6,5-7%.

Điều đáng nói, sự suy giảm tốc độ tăng trưởng lại diễn ra trong khi Việt Nam bắt đầu triển khai nhiều đề án tái cấu trúc nền kinh tế và thực hiện các khâu đột phá quan trọng trong nền kinh tế. Sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kéo theo mức độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người không cao và sau 8 năm nằm trong danh sách các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp, chúng ta mới chỉ đạt mức 2.109USD/người, khả năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình ngày càng rõ hơn.

Nguyên nhân được các nhà khoa học thẳng thắn chỉ ra: Các động lực tăng trưởng cũ đã tới hạn, các động lực tăng trưởng mới đang bộc lộ nhiều bất cập cần giải quyết, trong khi động lực tăng trưởng theo ngành hiện nay chưa phản ánh đúng lợi thế so sánh nguồn lực của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bởi lẽ với mức thu nhập đạt trình độ trung bình thấp, giá lao động cũng đang có xu hướng tăng lên, lợi thế so sánh của Việt Nam phải là ở những sản phẩm công nghiệp có dung lượng vốn và lao động ngang nhau - các ngành công nghiệp thế hệ thứ 2, như: cơ khí chế tạo, sản xuất ô tô, tàu thủy, sản phẩm điện tử tin học… Mặt khác, hiệu quả của tăng trưởng thấp do các sản phẩm động lực tăng trưởng hiện nay đều có giá trị gia tăng thấp; việc chạy theo các sản phẩm gia công lắp ráp đã không tạo động lực phát triển các ngành có lợi thế trong nước liên quan đến cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất và chế biến, như ngành nông nghiệp hoặc phát triển một số ngành công nghiệp phụ trợ. Vì thế, nếu tiếp tục khai thác động lực tăng trưởng nói trên sẽ có tác động ngược đến quá trình phát triển kinh tế đất nước, làm cho Việt Nam đứng mãi ở điểm cuối của chuỗi giá trị toàn cầu và sẽ không có cơ hội để tận dụng các yếu tố lợi thế so sánh khác.

Một trụ cột khác của nền kinh tế là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng cho thấy những bất cập. Đóng góp FDI vào tăng trưởng vẫn chỉ là FDI mang tính tận dụng lao động, gia công lắp ráp sản phẩm hoặc khai thác tài nguyên. Việc thực hiện liên kết giữa khu vực FDI với khu vực trong nước thiếu hiệu quả, nếu không nói là khu vực này đang có xu hướng chèn ép khu vực sản xuất trong nước. Đã vậy, trong khi doanh nghiệp FDI được xem là yếu tố quyết định vực tăng trưởng của Việt Nam, thì doanh nghiệp trong nước luôn gặp khó khăn, đóng góp trong tăng trưởng có xu hướng giảm, chiếm chưa đến 50% toàn nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hoạt động thấp, khoảng  1/4 tăng trưởng GDP.

Vấn đề nữa được mổ xẻ là vốn. Đây là yếu tố động lực tăng trưởng xét theo cấu trúc đầu vào, nhưng đang thể hiện tính bất hợp lý so với bức tranh tăng trưởng chúng ta hướng tới, là mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, với mức đóng góp của TFP phải vượt lên con số 50% (như Hàn Quốc 51,5%, Trung Quốc 52%, Thái Lan 53%, Indonesia 49%, Malaysia 49%). Thế nhưng, tăng trưởng của Việt Nam cho đến 6 tháng đầu năm 2016 vẫn chỉ là kết quả của tăng trưởng theo chiều rộng (chiếm xấp xỉ 70%), trong đó của vốn vẫn trên 50% (năm 2012 lên tới 68,72%).

Trước thực trạng trên, hội nhập quốc tế sẽ là cơ hội tạo thêm động lực cho sự phát triển đất nước. Theo đó, động lực phát triển của chiến lược tăng trưởng thời gian tới phải gắn với sự phát triển con người toàn diện, gồm tăng việc làm có năng suất; cải thiện hệ thống y tế, giáo dục và đổi mới hệ thống bảo trợ xã hội. Cần xây dựng được một thể chế giúp đảm bảo một môi trường sản xuất, kinh doanh với chi phí thấp nhất. Điều quan trọng cần đề cập thêm là làm sao tổng hợp được các nguồn lực đó, bởi để mạnh ai nấy làm như hiện nay sẽ làm triệt tiêu động lực. Cuối cùng, cần có những hành động kịp thời, mạnh mẽ để lấy lại lòng tin, vì mất lòng tin sẽ không còn động lực nữa.

Các tin khác