
Ngày 6-9, Cục Thống kê đã công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Tám, cho thấy “bức tranh” kinh tế vĩ mô với những áp lực giá cả duy trì ở mức độ nhất định.
Theo đó, CPI bình quân 8 tháng của năm đã tăng 3,25% so với cùng kỳ năm 2024, một mức tăng nằm trong tầm kiểm soát nhưng vẫn đòi hỏi sự theo dõi sát sao từ các cấp quản lý. Đáng chú ý, giá nhà ở thuê và ăn uống ngoài gia đình tiếp tục là những nhân tố chính đẩy CPI tháng Tám tăng 0,05% so với tháng Bảy.
Cụ thể hơn, so với tháng 12/2024, CPI tháng Tám tăng 2,18% và so với cùng kỳ năm trước, chỉ số này đã tăng 3,24%. Trong khi đó, chỉ số lạm phát cơ bản trong 8 tháng ghi nhận mức tăng 3,19% so với cùng kỳ, thể hiện sự ổn định tương đối của các yếu tố giá cả không biến động theo mùa vụ hay chính sách.
Tám nhóm hàng có chỉ số giá tăng
Phân tích sâu hơn về diễn biến này, bà Nguyễn Thu Oanh, Trưởng ban Dịch vụ và Giá, Cục Thống kê, đã chia sẻ những thông tin chi tiết về các nhóm hàng hóa và dịch vụ chịu ảnh hưởng. Cụ thể, tháng Tám có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ ghi nhận chỉ số giá tăng, đóng góp vào mức tăng chung của CPI.
Trong đó, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,21% do chịu ảnh hưởng lớn từ nhiều yếu tố.
Theo bà Oanh, giá thuê nhà tăng 0,28% do nhu cầu thuê nhà tăng tại một số địa phương trong thời điểm chuẩn bị vào năm học mới, khi sinh viên và học sinh quay trở lại các thành phố lớn để học tập. Điều này tạo áp lực lên thị trường nhà ở tại các đô thị lớn.
Cùng với đó, chỉ số giá điện sinh hoạt tháng Tám tăng 1,01%, phản ánh biến động trễ một tháng so với các mặt hàng khác do được tính dựa trên doanh thu và sản lượng tiêu dùng của tháng Bảy. Nguyên nhân chính là thời tiết nắng nóng kéo dài làm nhu cầu sử dụng điện tăng vọt. Ngoài ra, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở cũng tăng 0,49% do giá gạch, cát, đá tăng cao khi nguồn cung khan hiếm, chi phí sản xuất và vận chuyển tăng trong khi nhu cầu xây dựng vẫn ở mức cao.
Cùng với đó, nhóm giáo dục cũng ghi nhận mức tăng đáng kể 0,21%. Bà cho hay sự điều chỉnh học phí của một số trường đại học, trung học dân lập và mầm non tư thục tại một số địa phương cho năm học 2025-2026 là nguyên nhân chính đẩy giá dịch vụ giáo dục tăng 0,21%. Mặt khác, các sản phẩm phục vụ học tập cũng có xu hướng tăng giá, như giá sản phẩm từ giấy tăng 0,9%, bút viết các loại tăng 0,71% và văn phòng phẩm, đồ dùng học tập khác cùng tăng 0,52%, do nhu cầu chuẩn bị cho năm học mới.
Không chỉ có vậy, nhu cầu mua sắm chuẩn bị cho năm học mới cũng tác động rõ rệt lên nhóm may mặc, mũ nón và giày dép. Trên thực tế, nhiều gia đình tăng nhu cầu mua sắm sửa quần áo, giày dép cho con em mình trong dịp này. Trong đó, giá vải các loại tăng 0,28%, dịch vụ may mặc tăng 0,27%, giày dép tăng 0,18%, quần áo may sẵn và dịch vụ giày, dép cùng tăng 0,16% và mũ nón tăng 0,07%.
Bên cạnh đó, nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%, nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,11% .
Áp lực giá cả cốt lõi vẫn được kiểm soát
Ngược lại với xu hướng tăng, ba nhóm hàng hóa và dịch vụ ghi nhận chỉ số giá giảm trong tháng Tám, góp phần kìm hãm đà tăng của CPI tổng thể. Cụ thể, nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,04%.
Bà Oanh cho biết máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,63%, điện thoại cố định giảm 0,23% và điện thoại di động thông thường giảm 0,12%. Điều này cho thấy các nhà sản xuất và phân phối đang nỗ lực giảm giá để thu hút khách hàng.
Đáng chú ý, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,06%, một phần nhờ vào sự biến động của giá thực phẩm giảm 0,18%. Bà Oanh giải thích chi tiết giá thịt lợn giảm 2,42% do dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp tại một số địa phương khiến người tiêu dùng lo lắng về an toàn thực phẩm và nguồn gốc xuất xứ. Việc này kéo theo giá mỡ động vật giảm 1,72%, nội tạng động vật giảm 1,66%, giá thịt gia súc đông lạnh giảm 0,84% và thịt chế biến giảm 0,42%. Thêm vào đó, giá quả tươi, chế biến cũng giảm 1,51%.
Nhóm giao thông giảm 0,11% với nguyên nhân chính đến từ sự điều chỉnh giá xăng dầu trong nước. Cụ thể, chỉ số giá dầu diesel giảm 2,06%, chỉ số giá xăng giảm 0,2%. Thêm vào đó, giá xe ô tô đã qua sử dụng giảm 0,58% và xe máy giảm 0,18%, do các doanh nghiệp áp dụng chương trình ưu đãi, hỗ trợ người tiêu dùng mua sắm.
Bên cạnh chỉ số CPI tổng thể, Cục Thống kê cho biết lạm phát cơ bản (sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và các mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và giáo dục) tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 3,25% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân tám tháng, lạm phát cơ bản tăng 3,19% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 3,25% của CPI bình quân chung.

Tháng Tám, giá quả tươi và chế biến giảm 1,51%. Ảnh: Vietnam+)
"Sự chênh lệch này chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm, điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục là các yếu tố tác động làm tăng CPI tổng thể nhưng lại thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản. Điều này cho thấy, nếu loại bỏ các yếu tố mang tính chu kỳ hoặc do điều hành chính sách, áp lực giá cả cốt lõi vẫn được kiểm soát khá tốt,” bà Oanh giải thích.
Thị trường vàng trong nước tháng Tám diễn biến cùng chiều với xu hướng thế giới, phản ánh những lo ngại về kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ toàn cầu. Tính đến ngày 30/8, bình quân giá vàng thế giới ở mức 3.418,45 USD/ounce, tăng 1,47% so với tháng trước.
"Nguyên nhân chủ yếu do kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất, làm đồng USD suy yếu. Bên cạnh đó, bất ổn địa chính trị, hoạt động mua vào của các Ngân hàng Trung ương và nhu cầu vàng tăng mạnh tại các thị trường châu Á cũng đã tác động vào giá vàng thế giới," bà Oanh nhấn mạnh thêm.
Trong nước, chỉ số giá vàng tháng Tám tăng 1,2% so với tháng Bảy, tăng 48,62% so với cùng kỳ năm 2024 và tăng 36,51% so với tháng 12/2024. Bình quân tám tháng năm 2025, giá vàng tăng ấn tượng 40,25% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy vàng vẫn là kênh “trú ẩn” trong bối cảnh lạm phát và bất ổn.
Trái ngược với giá vàng, giá USD trong nước lại biến động ngược chiều với giá thế giới trong tháng Tám. Tính đến ngày 30/8, chỉ số giá USD trên thị trường quốc tế đạt mức 98,11 điểm, giảm 0,14% so với tháng trước. Tuy nhiên, chỉ số giá USD trong nước lại tăng 0,36% so với tháng Bảy và tăng 4,43% so với cùng kỳ năm 2024, theo đó đã tăng 3,67% so với tháng 12/2024. Bình quân tám tháng năm 2025, giá USD tăng 3,45% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy áp lực tỷ giá vẫn hiện hữu trong nước, có thể do chênh lệch lãi suất, dòng vốn đầu tư hoặc nhu cầu nhập khẩu.