Đảm bảo tính khách quan và khoa học khi áp thuế nước giải khát có đường

(ĐTTCO) - Các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ thừa cân béo phì. Trong khi đó, việc ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng thừa cân béo phì ở lứa tuổi học đường.

Đảm bảo tính khách quan và khoa học khi áp thuế nước giải khát có đường

Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2018 về tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn, tần suất và thói quen sử dụng thực phẩm của học sinh, tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%), nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).

Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác (22%).

Nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calorie duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt. Nếu so sánh về mức calories cung cấp giữa các loại thực phẩm thì lượng calo cung cấp từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g, mức thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường.

Bên cạnh đó, khảo sát về thói quen chọn lựa nước uống của người tiêu dùng thực hiện năm 2018 của Decision Lab, nếu áp thuế lên nước giải khát thì sẽ có 49% người tiêu dùng chuyển sang dùng các sản phẩm thay thế là nước uống chế biến tại chỗ có đường. Đây là nguồn đồ uống khó kiểm soát về chất lượng và hàm lượng đường và khả năng thu thuế của cơ quan nhà nước từ các nguồn này là không khả thi.

Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tức là tương đương với khoảng 34 lít/người/năm. Như vậy, mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 đang có chiều hướng giảm.

So với nhiều quốc gia và khu vực, mức độ tiêu thụ này là khá thấp. Ví dụ, theo báo cáo của Hiệp hội Ngành giải khát châu Âu (UNESDA) năm 2019, mức tiêu thụ nước giải khát bình quân đầu người ở châu Âu là 243,9 lít/người, tức gấp gần 4,8 lần so với Việt Nam. Trong số 26 quốc gia châu Âu có lượng tiêu thụ nước giải khát trên 100 lít/người/năm chỉ có 11 quốc gia áp thuế TTĐB với nước giải khát. Đức mặc dù là nước có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát cao nhất châu Âu cũng không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát.

Tại châu Á, nhiều nước cũng có mức tiêu thụ bình quân nước giải khát trên 100 lít/người/năm. Nhật Bản là quốc gia có lượng tiêu thụ nhóm nước giải khát này cao nhất trong khu vực với mức dự kiến năm 2023 là 169,28 lít/người/năm. Hàn Quốc cũng là quốc gia có tỷ lệ tiêu thụ nước giải khát ở mức cao, khoảng 96,51 lít/người/năm (theo số liệu năm 2023) nhưng cũng không áp thuế TTĐB đối với nước giải khát.

Tại khu vực châu Mỹ La Tinh, theo số liệu của Euromonitor công bố năm 2018 cho thấy mức tiêu thụ đồ uống có đường bình quân đầu người hàng ngày là 252 ml/người/ngày, tương ứng với khoảng 91,98 lít/người/năm.

Với những thông tin trên, có thể thấy, mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam không phải là cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Một số kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường không hiệu quả đối với mục tiêu ngăn ngừa và giảm thừa cân béo phì, thậm chí có thể gây ra những tác động không mong muốn hoặc phản tác dụng.

Thực tiễn một số nước, sau một thời gian áp dụng thuế TTĐB đối với mặt hàng nước giải khát có đường lại có tỷ lệ thừa cân béo phì không giảm mà lại tăng qua các năm. Như Chile có thời điểm áp dụng vào năm 2014, giai đoạn 2009 - 2010, tỷ lệ béo phì ở nam và nữ giới lần lượt là 19,2% và 30,7%. Sau khi áp dụng thuế TTĐB đối với nước ngọt, đến giai đoạn 2016 - 2017, tỷ lệ béo phì ở cả nam và nữ giới Chile đều tăng, lần lượt là 30,3% và 38,4%.

Một số quốc gia châu Âu như Bỉ áp dụng năm 2016, năm 2014, tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỷ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%.

Theo báo cáo của WHO, đến nay, một số nước đã phải từ bỏ công cụ này sau một thời gian áp dụng vì không có tác động đáng kể lên việc cải thiện sức khoẻ cộng đồng.

Đan Mạch và Na Uy đã bãi bỏ sắc thuế TTĐB áp dụng với nước giải khát có đường.

Nhật Bản cũng không áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát, nhưng lại là quốc gia có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất trong khu vực và trên thế giới với tỉ lệ béo phì ở người lớn là 4,5%; tỷ lệ thừa cân và béo phì ở trẻ em lần lượt là 3,8 % và 4,1%. Thông qua hai bộ luật có tên gọi Shuku Iku và Metabo, Nhật Bản tập trung vào chính sách giáo dục dinh dưỡng và tăng cường vận động.

Các tin khác