Độc đáo không gian đá cổ

(ĐTTCO) - Ở vùng đất Thanh Hà, Hải Dương có ngôi chùa Cửu Phẩm được trang trí sân vườn, tiểu cảnh bằng hàng ngàn hiện vật đá cổ. Trụ trì chùa là Thượng tọa Thích Thanh Thắng đã có hơn 30 năm sưu tầm hiện vật nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa xưa của cha ông.

Trục đá và cối đá biến bức tường sân chùa trở lên độc đáo.
Trục đá và cối đá biến bức tường sân chùa trở lên độc đáo.
Sưu tầm đồ đá cổ
Chùa Cửu Phẩm nằm ở thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà, có lịch sử hơn 1.000 năm do Khuông Việt Thiền sư xây dựng năm 971. Ấn tượng với chúng ta là đồ đá cổ xuất hiện ngay từ ngoài cổng chùa vào đến sân, vườn, rồi rải rác khắp nơi như dưới gốc cây, trên bờ tường, ban công… Đây chính là thành quả suốt hơn 30 năm lặn lội đi tìm kiếm sưu tập của Thượng tọa Thích Thanh Thắng. Suốt quãng thời gian đó, sư thầy đã lặn lội lùng tìm những bộ đồ đá cổ ở khắp vùng nông thôn Bắc bộ, Trung bộ. Những cuộc đi tìm kiếm ấy cũng đầy ly kỳ, gian nan và ngoạn mục.
Thượng tọa Thích Thanh Thắng nhớ lại vào một lần đi cầu siêu cho chúng sinh ở vùng đất Thanh Hà, ông đã phát hiện ra một phiến đá xanh rất to bỏ ven đường. Đọc niên đại trên phiến cổ này thấy ghi từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17) nên đã nhờ người cho xe chở phiến đá về sân chùa. Một lần khác đi công tác bên Phật giáo mạn Tam Điệp, Ninh Bình, sư thầy thấy một chiếc cầu đá cổ rất đẹp bị bỏ quên dưới bờ ruộng. Toàn bộ chiếc cầu đá này nặng hàng chục tấn. Thầy phải nhờ chính quyền địa phương hỗ trợ dùng xe tải hạng nặng chở cầu đá về chùa.
Độc đáo không gian đá cổ ảnh 1 Một chiếc cầu đá có niên đại 300 năm được trưng bày trong vườn chùa.
Hầu như mỗi lần về các vùng quê, công việc đầu tiên của thầy tìm đến quán nước đầu làng  hoặc các cụ cao niên nhất để dò hỏi tin tức. Sau khi biết làng này, xóm kia có hiện vật cổ bằng đá bị người dân vứt bỏ, sư thầy sẽ thuê vận chuyển về. Thậm chí có hiện vật đá cổ dưới đáy ao, đáy hồ thầy cũng thuê người dân địa phương vớt lên đem về chùa. Có chuyến đi xa thầy Thích Thanh Thắng tìm được 40-50 bộ đồ đá cổ gồm cối đá giã gạo, chó đá, những chiếc trục đá, cùng đôi chiếc trục đá ép mía rất to, tổng cộng đến 8-10 tấn. 
Hay có những lần đi tìm kiếm, sư thầy phải mất vài năm mới thương thuyết người chủ sở hữu cho mang hiện vật về chùa. Năm 2005, về huyện Nam Sách, Hải Dương phát hiện ra trong một làng có cây cầu đá rất đẹp, dài 7 nhịp, sư thầy thương lượng nhiều lần với chính quyền địa phương mong muốn họ nhượng lại cầu cho nhà chùa. Nhưng dân làng nhất quyết không nhượng lại cầu đá. Hơn 4 năm, sau nhiều lần về thuyết phục, mong muốn bảo tồn chiếc cầu đá ấy cho thế hệ mai sau, chính quyền và người dân mới hiểu và đồng ý nhượng lại cho nhà chùa. Ngay năm trước, sư thầy có về huyện Ân Thi, Hưng Yên và tìm thấy một chiếc trục đá cổ niên đại cách đây hơn 200 năm, nặng hơn 1 tấn. Sư thầy phải đàm phán với chính quyền địa phương kéo dài cả năm trời mới được sự đồng ý gửi lại nhà chùa để bảo tồn. 

Gìn giữ nét văn hóa độc đáo
Đến nay, sau khi ghi chép thống kê lại, bộ sưu tập đồ đá của Thượng tọa Thích Thanh Thắng đã lên đến con số hơn 12.000 hiện vật với tổng trọng lượng 180 tấn. Bước chân qua cổng chùa, chúng tôi thấy có một khu hồ sen và một ao nước kiểu giếng làng ngày xưa. Cả 2 chiếc ao, hồ này đều được kê những chiếc cối đá xung quanh. Tính ra phải có đến trên gần 300 chiếc cối đá to, nhỏ khác nhau. Trên những chiếc cối đá này được trồng hoa hoặc cây cảnh, cây thuốc. Sư thầy kể rằng cối đá chính là vật dụng mà ngày xưa nhà nào ở vùng nông thôn Bắc bộ nào cũng phải có. Nó dùng với một chiếc chày tay bằng gỗ để giã thóc, giã muối vừng, lạc, thịt… Những chiếc cối đá này có niên đại từ 80-100 năm.
Ở góc vườn chùa lại có nhiều hiện vật đá rất lạ mắt, mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, không biết gọi tên là gì. Thượng tọa cho biết: “Đây là những chiếc trục, một số nơi gọi là trụ đá. Nó nằm trong bộ cối giã gạo đạp chân, rất phổ biến ở vùng Bắc bộ thời trước cách mạng. Bộ công cụ này gồm một cối thường làm bằng đá để đựng thóc gạo và một phức hợp chày có cán. Chày có cán trong bộ cối giã gạo đạp chân cũng gồm chày giã (bằng gỗ cứng, tròn, dài 40-50cm) và cán (bằng gỗ, dài ít nhất 2m, ở vị trí khoảng 1/3 về cuối có lắp một “con xỏ” ngang, gọi là tai cán chày). Để có thể hoạt động (đạp chân), phức hợp này được gá lên 1 trụ/trục bằng đá”.
Hiện vật cổ với số lượng nhiều nhất trong không gian văn hóa của chùa là những chiếc trục cán lúa bằng đá xanh. Phải có đến hơn 1.200 chiếc trục cán lúa bằng đá xanh của người nông dân xưa đã quy tụ về đây. Những chiếc trục cán lúa cổ điển này là một khối đá hình tròn hoặc bầu dục dài gần 1m được đục 2 đầu để cho 2 thanh sắt cỡ lớn vào. Sau đó người nông dân buộc dây vào 2 thanh sắt đó cán lăn qua, lăn lại bông cây lúa đã gặt về để hạt thóc rời ra ngoài. 
Khi chúng tôi vòng ra phía sau ngôi chùa thì thấy những chiếc trục đá cán lúa đã được gắn kết với nhau thành một lan can lạ mắt rất đẹp chạy xung quanh bờ ao. Ở giữa sân chùa còn có chiếc thống đá cổ hình trụ tròn, một mặt phẳng, vuông có bia khắc chữ Hán cổ. Chiếc thống đá này nặng  2,5 tấn có niên đại gần 400 năm tuổi, từ thời Lê Trung Hưng được người xưa dùng để đựng nước. Ở phía bên phải của vườn chùa là khu trưng bày bia đá, phiến đá, hương đá và cầu đá. Trong đó có phiến đá cao khoảng 2m, rộng trên 1m, rêu phong cổ kính với niên đại trên 300 năm. Còn chiếc cầu đá ở đây cũng có niên đại ngót nghét 400 năm. Ngày xưa ở vùng nông thôn Bắc bộ, để bắc qua những con mương hoặc sông nhỏ, các làng thường liên kết với nhau thuê thợ để làm cầu đá cho vĩnh cửu. 

Các tin khác