
Điều này cho thấy dòng tiền đã, đang và sẽ tiếp tục chảy mạnh. Dù vậy, đà tăng mạnh của tín dụng cũng đặt ra không ít thách thức đối với thanh khoản hệ thống, lãi suất và tỷ giá trong những tháng cuối năm.
Ưu tiên hỗ trợ tăng trưởng
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết tín dụng toàn hệ thống 7 tháng đầu năm tăng khoảng 10% so với cuối năm 2024, mức tăng khá cao nếu so với 6% cùng kỳ năm trước.
Tốc độ tăng tín dụng vào 2 lĩnh vực bất động sản và chứng khoán cao hơn mức bình quân chung, song điều đó phù hợp với định hướng của Chính phủ là tháo gỡ khó khăn. Với bất động sản, khi dự án được gỡ vướng về pháp lý, nhu cầu vốn để triển khai là tất yếu. Với chứng khoán, mặc dù có tốc độ tăng nhưng tỷ trọng chỉ chiếm 1,5% tổng dư nợ, không gây rủi ro hệ thống.
Theo thông tin từ NHNN, đến ngày 30-6, tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế đạt hơn 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024. Như vậy tính theo giá trị tuyệt đối, trong 6 tháng đầu năm, hệ thống NH đã cung ứng thêm gần 1,55 triệu tỷ đồng tín dụng cho nền kinh tế, bình quân khoảng 260.000 tỷ đồng mỗi tháng.
So với cùng kỳ năm 2024, mức tăng này cao hơn 19,32%, đồng thời ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm cao nhất kể từ 2023 đến nay, và đang tiến gần tới mục tiêu tăng trưởng cả năm 16% mà NHNN đặt ra.
Số liệu từ NHNN cũng cho thấy, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng 5,31%, chiếm 23,16% tổng dư nợ. Tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 5,71%, chiếm 17,51% tổng dư nợ. Tín dụng xuất khẩu tăng 2,91%, công nghiệp hỗ trợ tăng 15,69%.
Đáng chú ý, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng mạnh 17,59%... Tuy nhiên, bên cạnh đó tín dụng bất động sản cũng tăng đáng kể, nửa đầu năm 2025 đã bứt tốc đạt 3,18 triệu tỷ đồng, tăng gấp 2,4 lần cuối năm 2024 và chiếm 18,5% tổng dư nợ toàn hệ thống.
Điều này cũng phù hợp khi song hành cùng Nghị quyết 226/NQ-CP ban hành ngày 6-8, theo đó khi Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 8,3 - 8,5% hồi đầu năm, yêu cầu NHNN chủ động, quyết liệt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng một cách công khai, minh bạch, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; đồng thời chuẩn bị kỹ các giải pháp chính sách tiền tệ cho những tháng cuối năm 2025 và cả năm 2026, báo cáo Thường trực Chính phủ trước ngày 20-8.
Thách thức điều hòa dòng vốn
Khi tín dụng trên đà tăng mạnh, đầu tháng 8, NHNN đã ban hành Công văn 6784, yêu cầu toàn hệ thống NH triển khai quyết liệt và hiệu quả các giải pháp ổn định lãi suất tiền gửi, đồng thời giảm lãi suất cho vay. Động thái này diễn ra trong bối cảnh tăng trưởng huy động vốn thời gian qua chưa theo kịp đà tăng của tín dụng.
Khoảng cách này đang có khả năng nới rộng hơn nếu tín dụng tiếp tục tăng nhanh, tiềm ẩn nguy cơ gây áp lực lên thanh khoản hệ thống và kéo mặt bằng lãi suất huy động đi lên. Yêu cầu này cho thấy NHNN một mặt muốn kìm đà tăng của lãi suất huy động, một mặt muốn giảm lãi suất cho vay. Về cơ bản, nền kinh tế sẽ được tiếp cận một lượng vốn vẫn ở mức rẻ và chấp nhận được.
Ở thời điểm hiện tại, khi việc tín dụng tăng mạnh cũng đang gây áp lực đến thanh khoản hệ thống, NHNN phải liên tục sử dụng công cụ thị trường mở để bơm tiền ngắn hạn nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng, giúp mở rộng tín dụng mà vẫn giữ ổn định mặt bằng lãi suất.
Tính đến ngày 11-8, NHNN đã nối dài chuỗi 4 tuần bơm ròng liên tiếp trên thị trường mở, chủ yếu thông qua phát hành mới trên kênh mua kỳ hạn nhằm điều tiết cung - cầu vốn trong hệ thống. Hành động của NHNN cũng đã hạ nhiệt lãi suất liên NH. Nếu ngày 7-8 lãi suất VNĐ liên NH kỳ hạn qua đêm đã lên 6,73%/năm, nhưng đến ngày 12-8 đã giảm về mức 5,02%/năm.
Động thái hỗ trợ của NHNN vẫn được đánh giá tích cực đối với thị trường, song các chuyên gia cũng cho rằng cung tiền đồng bị đẩy lên quá nhiều trong khi dòng ngoại tệ vào Việt Nam lại hạn chế, có thể sẽ dẫn đến rủi ro VNĐ bị mất giá mạnh. Khi VNĐ mất giá, sẽ dẫn đến hàng loạt mất cân đối với vĩ mô và tác động ngược lên lãi suất.
Hiện VNĐ đã mất giá khoảng 3,2% so với tỷ giá chính thức. Với ngưỡng mục tiêu mất giá cho phép 4,5% trong năm, dư địa điều hành tỷ giá chỉ còn 1,5-2% cho những tháng cuối năm. Đây là một không gian rất hẹp cho sự điều hành của NHNN trong những tháng cuối năm.
Mặt khác cũng có ý kiến cho rằng, nếu tín dụng tăng mạnh và chảy mạnh vào lĩnh vực sản xuất - kinh doanh sẽ tạo lực đẩy cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, số liệu tăng trưởng nhanh của tín dụng bất động sản trong 6 tháng đầu năm, cộng với số liệu từ báo cáo tài chính của nhiều công ty chứng khoán lớn trên thị trường cũng ghi nhận vay nợ NH đã tăng mạnh trong nửa đầu năm 2025. Từ đó nâng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán là khoảng 257.000 tỷ đồng, sẽ vẫn có những lo ngại nhất định về rủi ro khi bơm tín dụng quá mạnh.
Như vậy chính sách điều hành của NHNN hiện đang tập trung cao độ cho việc ưu tiên hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, Thống đốc NHNN cũng đã nhấn mạnh, cần có giải pháp đồng bộ để hỗ trợ chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả hơn. Trong đó, có 2 đề xuất được đánh giá là trọng tâm.
Một là cần phát triển mạnh mẽ thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu vốn trung - dài hạn, từ đó giảm áp lực lên nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống NH, đây là hướng đi đã được Chính phủ đồng thuận tại công điện mới nhất.
Hai là cần mở rộng chương trình bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nếu các doanh nghiệp này được hỗ trợ vay vốn qua cơ chế bảo lãnh, sẽ tạo ra động lực sản xuất mạnh mẽ từ mọi khu vực trong nền kinh tế.
Với các lĩnh vực như bất động sản và hạ tầng, cần nguồn vốn trung, dài hạn lớn, nên huy động vốn qua kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa phương, hoặc các khoản vay quốc tế. Vì chỉ khi huy động vốn đúng kênh, đúng tính chất mới có thể vừa tăng trưởng cao, vừa ổn định bền vững.