Nếu tỷ lệ sở hữu của NĐTNN trong thời gian tới được gia tăng thêm 10% bằng CP không có quyền biểu quyết, ngoài những yếu tố tích cực như kỳ vọng vẫn có thể xuất hiện những rủi ro nhất định. Đó là những xung đột về sở hữu, quyền biểu quyết, quyền lợi cổ đông có thể bùng phát bất cứ lúc nào.
Cung và cầu
Không phải NĐTNN nào cũng “thích” doanh nghiệp phát hành thêm CP không có quyền biểu quyết cho “đồng đội” của mình. Đầu tiên, phát hành thêm CP cho dù chỉ là 10%, thì nguy cơ pha loãng vẫn tồn tại, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của CP (EPS).
Ở đây cần lưu ý, dù khối ngoại nắm 49% cổ phần, chưa quá bán, nhưng vẫn có thể nắm quyền phủ quyết, bởi lẽ một số vấn đề muốn ĐHCĐ thông qua cần 65% cổ phần ủng hộ.
Như vậy, cổ đông ngoại chỉ cần nắm hơn 35% hoàn toàn có thể bác bỏ nếu không “ưng cái bụng”. Ở chiều ngược lại, nếu NĐTNN muốn doanh nghiệp phát hành thêm CP cho mình hoặc cho các “đồng đội” khác mà các cổ đông trong nước không đồng ý, hoặc chính doanh nghiệp cũng không chịu cũng rất mệt mỏi.
Thường những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cỡ như Vinamilk (VNM), Dược Hậu Giang (DHG)… mới được săn đuổi để mua thêm CP đến mức “cháy hàng”.
![]() |
NĐT theo dõi giá CP. Ảnh: CAO THĂNG |
Nhưng cần lưu ý rằng, những doanh nghiệp hiệu quả cũng chẳng có nhu cầu gì về vốn liếng, chẳng hạn VNM tiền mặt vẫn rất dồi dào, tài sản hàng chục ngàn tỷ đồng trong khi không nợ ngân hàng.
Nếu có nhu cầu phát hành vốn lớn, ngay chính các NĐT trong nước cũng sẵn sàng bỏ tiền cho các “đại gia” này. Mặt khác, những NĐTNN mua cổ phần không có quyền biểu quyết, khả năng có thể cống hiến những ý tưởng, chất xám của mình cho hoạt động của doanh nghiệp cũng có thể bị bỏ ngỏ.
Bỏ công, bỏ sức để làm gì khi họp ĐHCĐ lại không có tiếng nói, chưa kể vai vế của những NĐT giữ cổ phần này trong một chừng mực nào đó vẫn “thấp” hơn những cổ đông thông thường, có quyền biểu quyết.
Như vậy, nhu cầu tăng vốn 10% với doanh nghiệp lớn chưa chắc đã là giải pháp tối ưu, vì nếu cần có thể vay ngân hàng. Trường hợp doanh nghiệp cần vốn phải là số vốn lớn thực sự, như vậy 10% là không đủ.
Về mặt khách quan, tìm ra một lý do nào đó để vẹn đôi đường trong việc phát hành CP không biểu quyết tại các doanh nghiệp có đủ điều kiện là không đơn giản. Và cho dù các cơ quan quản lý có đưa ra giải pháp cụ thể và chấp thuận để triển khai, khả năng xảy ra một thương vụ trong ngắn hạn cũng không dễ dàng.
Có thực “vô hại”?
Thoạt nhìn, CP không có quyền biểu quyết có thể không tác động nhiều đến kết cấu quyền lực của doanh nghiệp, nhưng thực tế lại có thể khác hẳn. Về mặt cảm tính, nếu một doanh nghiệp “đầy” room biểu quyết (49%) và không biểu quyết (10%) của NĐTNN, vẫn có sự khác biệt nhất định với một doanh nghiệp chỉ đầy room biểu quyết (49%) đơn thuần.
Đơn cử, nếu một cổ đông lớn “ôm” hết cổ phần có quyền biểu quyết lẫn không biểu quyết tại một doanh nghiệp, thì sức ảnh hưởng chắc chắn sẽ rất lớn, mặc dù có những vấn đề chỉ “vô hình”. Và khi các cổ đông khác nhìn vào việc cổ đông nước ngoài bao trùm ảnh hưởng lên doanh nghiệp tất nhiên sẽ phải “dè chừng”.
Thông thường, giá CP không có quyền biểu quyết sẽ phải thấp hơn giá CP biểu quyết, tức giá CP trên sàn hiện hành có thể là hàn thử biểu để tính toán giá phát hành CP không biểu quyết. Nhưng trong một số trường hợp, hiệu ứng ngược vẫn có thể xảy ra.
Đơn cử, giá CP A. trên sàn 10.0, NĐTNN B. nào đó bỏ tiền mua CP không có quyền biểu quyết với giá 7.0, thấp hơn 30%. Một thời gian sau, B. vì một lý do nào đó đem số CP của mình bán lại cho NĐT C. với giá 5.0 chẳng hạn.
Lúc này, thị trường có thể nhìn vào việc này để xem xét vì sao, vì giá CP không biểu quyết hạ nên có thể dẫn đến việc giá CP trên sàn niêm yết cũng hạ theo để “cân bằng”. Đây chỉ là một giả thiết đơn thuần, nhưng hoàn toàn có thể xảy ra trên thị trường.
Trường hợp nếu tại A. có những vấn đề thực sự, khiến cho B. thất vọng đem CP bán ra đó là điều chấp nhận. Nhưng nếu không có gì xảy ra, động thái của B. chỉ đơn thuần là “dìm giá” CP cũng là một rủi ro đáng ngại.
Và rõ ràng, động thái này ảnh hưởng toàn cục trên tất cả cổ đông. Để giải quyết những rủi ro trên, không chỉ một mình doanh nghiệp có thể thực hiện mà cần phải có sự tham gia của các cơ quan quản lý.
