
Chặng đường khởi động và hình thành
Vào một ngày đầu năm 1977, trong một buổi làm việc tại Văn phòng Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đặng Việt Châu đã truyền đạt chủ trương soạn thảo một văn bản pháp luật, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho người nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam làm ăn, kinh doanh.
Trên cơ sở đó, Tổ soạn thảo văn bản được thành lập, và trong 2 tháng Tổ soạn thảo Điều lệ Đầu tư nước ngoài đã hoàn thành dự thảo.
Ngày 18-4-1977, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, đã ký Nghị định 115-CP ban hành Điều lệ Đầu tư nước ngoài. Đây là văn bản đầu tiên thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng, khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng lại nền kinh tế sau chiến tranh.

Các nguyên tắc cơ bản về lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư, góp vốn đầu tư, hình thức đầu tư, thời hạn đầu tư, tỷ lệ áp dụng cho đầu tư nước ngoài, quản lý ngoại hối và chế độ kế toán-thống kê, giải thể, xử lý tranh chấp… đã được quy định tại Điều lệ Đầu tư nước ngoài 1977.
Đây là văn bản đầu tiên, mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do điều kiện quốc tế những năm cuối thập niên 70, đầu 80 của thế kỷ 20 chưa thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước, Điều lệ Đầu tư nước ngoài 1977 chưa đem lại kết quả mong muốn.
Năm 1984, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định “bổ sung và hoàn thiện Điều lệ Đầu tư nước ngoài 1977 và ban hành, tiến tới xây dựng bộ luật đầu tư hoàn chỉnh”.
Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã ra quyết định thành lập Tiểu ban nghiên cứu Luật Đầu tư. Dự thảo Luật Đầu tư được hoàn thành vào đầu năm 1986, và được Hội đồng Bộ trưởng thông qua tại kỳ họp tháng 3-1986.
Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã thông qua dự thảo luật được sửa đổi và bổ sung theo tinh thần của thảo luận tại Quốc hội. Luật Đầu tư nước ngoài 1987 chính thức ra đời.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển Luật Đầu tư nước ngoài từ 1987, cho đến nay được sửa đổi bổ sung với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014, 2020 và được cộng đồng quốc tế đánh giá là một đạo luật ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Vì vậy, ngay trong những ngày đầu tiên khi điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi tại Việt Nam, mà không có sự khác biệt đáng kể so với các nước kinh tế thị trường truyền thống.
Thu hút FDI qua các dấu mốc sửa đổi Luật Đầu tư
Qua các lần sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài, cho thấy vai trò quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tinh thần của Cách mạng Tháng 8-1945 và Quốc khánh 2-9-1945 vẫn được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh. Thu hút FDI gần 40 năm qua (12-1987 đến 8-2025) vẫn được tập trung và mở rộng, hoàn thiện, chi tiết hóa các mục tiêu.
Tháng 6-1990 và tiếp theo vào các năm 1992, 1996, 2000, 2005, 2008, 2014, 2020 có thể nhận rõ, qua mỗi lần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài, việc điều chỉnh, bổ sung luôn phù hợp với bối cảnh trong nước và tình hình địa chính trị, kinh tế thế giới. FDI giai đoạn sau đều cao hơn cả về số lượng và chất lượng so với giai đoạn trước, đóng góp không nhỏ vào thành quả phát triển kinh tế xã hội mỗi giai đoạn đó.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về đầu tư trong thời gian qua, còn góp phần quan trọng vào thành công hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, với việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2005, và sau đó tham gia vào hàng loạt hiệp định Thương mại tự do (FTA) với nhiều quốc gia trên thế giới.
Ngay sau khi Hội nghị tổng kết 30 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 10-2018, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 28-8-2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn đến 2030, với các nội dung cụ thể.
Hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; Đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội;
Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Khắc phục cơ bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng, hoàn thiện và thực hiện thể chế, chính sách về hợp tác đầu tư nước ngoài;
Tạo lập môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng sẽ là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Hiện nay trên cương vị người đứng đầu của Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đưa ra lời hiệu triệu cho một Kỷ nguyên mới phát triển - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Phát biểu tại Đối thoại Doanh nghiệp cấp cao nhân dịp 70 năm quan hệ Việt Nam - Indonesia (10-3-2025), Tổng Bí thư khẳng định: “Việt Nam luôn là điểm đến tin cậy của các nhà đầu tư, nhiều nhà đầu tư đã lựa chọn Việt Nam là trung tâm sản xuất chiến lược, kết nối với các chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị cấu trúc mới của thế giới, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chip bán dẫn, kinh tế số, kinh tế xanh”.
Sự tâm huyết, chỉ đạo sát sao, cụ thể của Tổng Bí thư Tô Lâm theo sát bối cảnh trong nước và quốc tế, là sự kết nối sáng tạo, sáng suốt của các lãnh tụ tối cao của Đảng qua các thời kỳ cách mạng trước và sau thành công của Cách mạng Tháng 8-1945 đến nay.