Lo ngại tái khủng hoảng Đông Á

Các loại tiền tệ trong khu vực rơi xuống mức thấp gần kỷ lục, hàng triệu USD vốn nước ngoài chảy ra khỏi thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư lo lắng một sự tan chảy tài chính… Đó là tình hình Đông Á hiện nay, khiến các nhà phân tích lo ngại một sự trở lại của khủng hoảng tài chính Đông Á như năm 1997-1998.

Các loại tiền tệ trong khu vực rơi xuống mức thấp gần kỷ lục, hàng triệu USD vốn nước ngoài chảy ra khỏi thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư lo lắng một sự tan chảy tài chính… Đó là tình hình Đông Á hiện nay, khiến các nhà phân tích lo ngại một sự trở lại của khủng hoảng tài chính Đông Á như năm 1997-1998.

Karishma Vaswani, biên tập viên phụ trách mảng kinh tế châu Á của BBC, cho rằng những gì đang diễn ra hiện nay làm bà nhớ lại cuộc khủng hoảng cách nay gần 2 thập niên. Lúc đó, đồng rupiah của Indonesia mất hơn 80% giá trị, từ 2.500 rupiah ăn 1USD xuống tới 16.000 rupiah 1USD.

Tính đến tháng 12-1997, thị trường chứng khoán mất hơn 50% giá trị và nhiều nhà đầu tư mất hàng chục ngàn USD chỉ trong 1 phiên giao dịch. Không khí hoảng loạn có thể cảm nhận ở mọi nơi. Người ta lo ngân hàng hết tiền nên đứng xếp hàng dài dằng dặc bên ngoài các chi nhánh nhà băng, cố rút hết tiền tiết kiệm. Các nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc làm. Giá các mặt hàng lương thực thiết yếu như sữa em bé và dầu ăn tăng chóng mặt.

“Đó là một cuộc khủng hoảng mà các bà nội trợ có thể thấy rõ nhất, khi giá sữa cho con họ tăng gấp 3, dầu ăn phải bán ở đồn cảnh sát, nếu không người ta có thể giết nhau để giành mua” - Vaswani nói. Khủng hoảng bùng phát với việc Thái Lan thả nổi đồng baht năm 1997, tạo hiệu ứng domino trong khu vực khi tiền tệ các nước lần lượt lao dốc so với USD.

Ngày nay, nhiều người lo ngại việc Trung Quốc phá giá tiền tệ gần đây có thể mở đầu cho một xu hướng tương tự. Một số nhà phân tích thậm chí cảnh báo hậu quả có thể lớn hơn nhiều so với năm 1997 vì nền kinh tế Trung Quốc lớn hơn và có vai trò quan trọng hơn nhiều trong nền kinh tế khu vực và thế giới so với Thái Lan lúc đó.

Thêm vào đó, trước khi Bắc Kinh phá giá NDT, đồng ringgit của Malaysia đã mất giá 25% so với USD trong vòng 1 năm qua, trong khi đồng rupiah mất 15% giá trị trong cùng kỳ. Mới đây nhất, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hôm 20-8 cho biết phải cho Kazakhstan vay khẩn cấp 1 tỷ USD sau khi đồng tiền của nước này bị mất giá tới 25%. Ngân hàng Trung ương Kazakhstan đã phá giá nội tệ thêm 4,4% so với USD theo sau việc NDT phá giá.

Thêm một dấu hiệu đáng lo ngại: dữ liệu công bố hôm 21-8 cho biết hoạt động của các nhà máy Trung Quốc giảm với tốc độ nhanh nhất hơn 6 năm. Điều này gia tăng lo ngại nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng ngày càng chậm lại, làm giảm nhu cầu tiêu thụ hàng hóa trên khu vực và cả thế giới. Vì Trung Quốc và châu Á đóng góp tới hơn 50% tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nên tăng trưởng chậm lại ở khu vực này sẽ tác động mạnh đến sức khỏe của kinh tế thế giới.

Đồng rupiah của Indonesia đã giảm giá 15% trong vòng 1 năm trước khi Trung Quốc phá giá NDT.

Đồng rupiah của Indonesia đã giảm giá 15% trong vòng 1 năm trước khi Trung Quốc
phá giá NDT.

Tuy nhiên, một số nhà kinh tế vẫn tỏ ra lạc quan. Julian Evans-Pritchard, chuyên gia kinh tế Trung Quốc của Capital Economics, nói: “Rủi ro hạ cánh cứng của Trung Quốc dường như bị thổi phồng quá mức. Tăng trưởng tín dụng đã tăng trở lại do những chính sách nới lỏng của Bắc Kinh bắt đầu có tác dụng”. Ngoài ra, các thị trường châu Á hiện nay cũng mạnh hơn nhiều so với năm 1997-1998. Khu vực này hiện có cán cân tài khoản vãng lai mạnh hơn, dự trữ ngoại hối lớn hơn và hầu hết tiền tệ được thả nổi, so với cơ chế neo giá cứng phổ biến trước đây.

Một nhân tố tích cực khác là Ấn Độ. Nền kinh tế nước đông dân thứ nhì thế giới nay tăng trưởng nhanh hơn cả Trung Quốc (theo số liệu của New Delhi) và thị trường chứng khoán cũng chứng kiến làn sóng đầu tư kỷ lục trong 6 tháng qua. Vì vậy, nhiều người hy vọng Ấn Độ sẽ là cỗ máy tăng trưởng thay thế Trung Quốc trong thời gian tới.

 (Theo BBC)

Các tin khác