Trong bối cảnh dịch COVID-19 có tác động sâu sắc đến chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng đến việc vận chuyển hàng hóa giữa các quốc gia, gia tăng chi phí logistics, thị trường ASEAN với thuận lợi về khoảng cách địa lý đang mở ra những cơ hội hợp tác cho doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Nguyễn Phúc Nam, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á-châu Phi thuộc Bộ Công Thương, đã khẳng định như vậy tại Hội thảo quốc tế Giới thiệu quy định quản lý xuất nhập khẩu mới và các cơ hội giao thương với các thị trường ASEAN trong thời kỳ hậu COVID-19 do Vụ Thị trường châu Á-châu Phi tổ chức ngày 26/11 theo hình thức trực tiếp và trực tuyến.
Theo ông Nguyễn Phúc Nam, ASEAN là thị trường xuất khẩu đứng thứ 4 của Việt Nam sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU).
Năm 2020 do tác động từ dịch COVID-19, xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam-ASEAN có sự suy giảm nhẹ, giảm 6,8% so với năm 2019, đạt 53,6 tỷ USD.
Thế nhưng năm 2021, nhờ nỗ lực tìm hiểu, khai thác lợi thế, cơ hội mà khu vực thị trường ASEAN mang lại, thương mại Việt Nam-ASEAN đã phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng.
Vì thế, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Việt Nam-ASEAN trong 10 tháng năm 2021 đạt 56,6 tỷ USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2020, cao hơn mức tăng trưởng xuất nhập khẩu trung bình của Việt Nam với thế giới là 22,6%.
Hơn nữa, với lợi thế ASEAN là thị trường gần gũi giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho bãi, doanh nghiệp cũng được chọn phương thức vận chuyển hàng hóa như vận tải đường biển, đường bộ, hàng không.
Mặc dù ASEAN là khu vực thị trường có sự đa dạng về văn hóa nhưng vẫn có sự thống nhất trong tổng thể. Tuy mỗi nước có phong tục tập quán riêng nhưng đều có nền tảng văn hóa nông nghiệp nên thói quen, thị hiếu tiêu dùng gần gũi, giao thoa, có nhiều nét tương đồng. Do đó, hàng hóa của Việt Nam có thể thâm nhập và được ưa chuộng tại thị trường ASEAN, đáp ứng các yêu cầu về chất lượng cũng như giá thành.
Ông Nguyễn Phúc Nam cho biết thêm việc xuất khẩu sang ASEAN là bước đầu để hàng hóa Việt Nam tiếp tục thâm nhập các thị trường khác yêu cầu cao hơn và khó tính hơn.
Hiện nay hầu hết các hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các nước ASEAN đã được hưởng ưu đãi thuế quan 0% theo hiệp định thương mại hàng hóa 0% hoặc được hưởng một số ưu đãi hàng hóa đặc biệt hơn theo một số thỏa thuận song phương mà Việt Nam đã ký với các nước Lào và Campuchia.
Tới đây, các nước ASEAN đẩy nhanh triển khai các biện pháp phục hồi kinh tế sau đại dịch như các cam kết về mở cửa thị trường, đảm bảo các chuỗi cung ứng, thuận lợi hóa thương mại sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam khai thác hơn nữa tiềm năng khu vực thị trường này.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Phúc Nam cũng chỉ ra rằng: Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa dành sự quan tâm đúng mức cho thị trường này hoặc chưa nắm bắt được thông tin về thị trường cụ thể, nhất là kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát.
Thực tế cho thấy, các nước ASEAN đang bước vào giai đoạn phục hồi, có nhu cầu lớn trong nhập khẩu hàng hóa. Trong đó có thể kể đến Thái Lan và Singapore. Bởi Thái Lan hiện đang là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại ASEAN.
Theo cơ quan thống kê của Thái Lan, tính đến hết 10/2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Thái Lan đạt trên 443 tỷ USD, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2020. Đáng chú ý, các nhóm hàng nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh từ 8% đến trên 100% hầu hết là nguyên liệu đầu vào, máy móc phục vụ sản xuất.
Chia sẻ thêm về thị trường Thái Lan, bà Trần Thị Thanh Mỹ, Tham tán thương mại Việt Nam tại Thái Lan cho hay Thái Lan đã nới lỏng các quy định xuất nhập khẩu khiến giao thương thuận lợi hơn và nối lại chuỗi sản xuất cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hóa, dịch vụ toàn cầu. Đây là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Còn theo bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán thương mại tại Singapore, nếu như năm 2016, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Singapore đạt 4,1 tỷ SGD, tương đương 2,99 tỷ USD, đến năm 2020 con số này đã lên đến 5,5 tỷ SGD, tương đương khoảng 4,01 tỷ USD.
Riêng 9 tháng năm 2021, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này tăng đến 31% và thặng dư khoảng 600 triệu SGD, tương đương 437 triệu USD.
Bà Trần Thu Quỳnh cho biết thêm Singapore hiện đang đặt mục tiêu tự chủ 30% lương thực vào năm 2030 mặc dù nước này không có nền nông nghiệp. Do đó, để thực hiện được mục tiêu tham vọng này, nhu cầu hợp tác sản xuất lương thực, thực phẩm của đảo quốc sư tử là rất lớn.
Hiện nay, Singapore rất quan tâm đến khả năng phối hợp canh tác để xuất khẩu sang nước này. Vì vậy, doanh nghiệp trang trại và trang trại có nhiều cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này.
Nhằm ứng phó với dịch bệnh cũng như phục hồi kinh tế, hỗ trợ sản xuất trong nước, ông Nguyễn Phúc Nam cho biết các nước ASEAN đã ban hành nhiều chính sách, quy định mới liên quan đến kinh tế thương mại, xuất nhập khẩu, thông quan, phòng dịch, ảnh hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Đáng lưu ý, một số quy định về phòng dịch có thể thay đổi rất nhanh, đột ngột, gây khó khăn cho doanh nghiệp nếu như không nắm bắt được thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Bà Trần Thị Thanh Mỹ cũng chia sẻ thời gian qua, Thương vụ Việt Nam tại Thái Lan đã nhận được kiến nghị cao gấp 2-3 lần so với thời điểm trước khi có dịch COVID-19 về việc các doanh nghiệp lừa đảo, chủ yếu là một số doanh nghiệp mạo danh doanh nghiệp Thái Lan có uy tín để lừa doanh nghiệp Việt Nam.
Vì vậy, bất kỳ khi nào các doanh nghiệp thấy tín hiệu khả nghi đều có thể liên hệ với Thương vụ để xác minh nhằm giảm thiểu những sự việc rủi ro đáng tiếc xảy ra.