Nhận diện điểm nghẽn
Việt Nam có 3.260 km đường bờ biển, nằm ngay trên một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới, kết nối Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, châu Âu.
Thế nhưng, tiềm năng chỉ là điểm xuất phát; để trở thành sức mạnh thực sự lại cần một nền tảng vững chắc mà hiện nay kinh tế biển Việt Nam vẫn chưa có được. Dù sở hữu lợi thế thiên nhiên hiếm có, khu vực này vẫn chưa bứt phá tương xứng. Nhiều điểm nghẽn cốt lõi đang âm thầm kìm hãm bước tiến.
Trước hết và quan trọng nhất là năng lực của chính các doanh nghiệp biển. Phần lớn còn nhỏ lẻ, vốn mỏng, công nghệ giản đơn; chủ yếu nhận gia công hoặc cung cấp những dịch vụ ở phân khúc thấp, khiến giá trị gia tăng thu được rất khiêm tốn.
Ngay cả trong những lĩnh vực vốn được xem là thế mạnh tự nhiên như vận tải biển, du lịch biển, thủy sản hay logistics ven biển, doanh nghiệp nội vẫn thường xuyên lép vế trước các tập đoàn quốc tế. Khi bản thân doanh nghiệp còn yếu, Việt Nam khó có thể tạo dựng lợi thế cạnh tranh thực chất trong chuỗi giá trị kinh tế đại dương.
Hạ tầng và logistics biển cũng là điểm nghẽn lớn. Cảng biển phân tán, thiếu liên thông, thiếu đường sắt kết nối, thiếu trung tâm logistics quy mô vùng, khiến chi phí logistics luôn ở mức rất cao, cao hơn các quốc gia như Singapore hay Thái Lan. Điều này khiến doanh nghiệp Việt Nam mất lợi thế ngay trên sân nhà.
Ngay cả các cảng nước sâu như Cái Mép - Thị Vải, dù có thể đón tàu lớn, nhưng vẫn chưa trở thành trung tâm trung chuyển quốc tế do thiếu đô thị, cảng đồng bộ và thiếu hạ tầng logistics hiệu quả. Lợi thế vàng của vị trí địa lý vì vậy bị biến thành lợi thế “nửa vời”.
Một hạn chế sâu hơn là công nghệ. Năng suất các ngành kinh tế biển thấp do công nghệ lạc hậu, chưa có sự đầu tư bài bản vào đổi mới sáng tạo. Công nghệ bảo quản thủy sản kém làm mất giá trị sau thu hoạch.
Công nghệ giám sát và quản lý nghề cá còn lạc hậu khiến Việt Nam chậm đáp ứng các yêu cầu của Ủy ban châu Âu (EC) về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), dẫn đến việc bị áp dụng “thẻ vàng” và gặp nhiều khó khăn trong nỗ lực gỡ bỏ cảnh báo này.
Trong lĩnh vực năng lượng tái tạo ngoài khơi, một ngành được đánh giá là tương lai của Việt Nam, hầu hết turbine, thiết bị và kết cấu vẫn phải nhập khẩu, khiến chúng ta khó tạo ra chuỗi cung ứng nội địa. Nếu năng suất tổng hợp (TFP) không tăng, Việt Nam sẽ mãi ở phân khúc giá trị thấp và rất dễ bị tổn thương trước biến động quốc tế.
Nghiêm trọng hơn cả là điểm nghẽn về thể chế. Kinh tế biển hiện được quản lý theo kiểu “mạnh ai nấy làm”, phân tán giữa nhiều bộ ngành, mỗi nơi nắm một phần nhưng không có cơ chế phối hợp hiệu quả.
Chuyển đổi mô hình khai thác
Quy hoạch cảng biển lại tách rời quy hoạch công nghiệp và đô thị ven biển; chính sách nghề cá không gắn với chính sách logistics, môi trường biển hay thu hút FDI; dữ liệu về biển thiếu liên thông và không có một cơ quan điều phối liên ngành đủ thẩm quyền để kết nối tất cả các mảnh ghép.
Khi mỗi bộ ngành cùng quản lý một phần không gian biển mà không có một “nhạc trưởng” điều phối chung, sức mạnh tổng thể bị chia nhỏ và lãng phí. Đây là nút thắt nền tảng, khiến tiềm năng dù dồi dào đến đâu cũng khó chuyển hóa thành sức mạnh thực sự.
Dòng vốn FDI vào kinh tế biển cũng chưa như kỳ vọng. Thay vì các ngành công nghệ cao, phần lớn FDI vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên, sản xuất gia công và các hoạt động thâm dụng lao động. Việt Nam vẫn đứng ngoài chuỗi công nghệ biển toàn cầu, nơi giá trị gia tăng cao nhất nằm ở vật liệu mới, robot dưới biển, thiết bị hàng hải, turbine gió, công nghệ sinh học biển và logistics thông minh.
Chưa kể, nguồn nhân lực biển cũng đang thiếu trầm trọng. Các ngành kinh tế biển đòi hỏi kỹ sư hải dương học, chuyên gia môi trường biển, kỹ sư năng lượng gió, kỹ thuật viên tàu biển, chuyên gia logistics biển… nhưng cung nhân lực không theo kịp nhu cầu thực tế.
Dù còn nhiều hạn chế, biển vẫn là kỳ vọng lớn nhất cho một mô hình phát triển mới của Việt Nam. Điều cốt yếu là phải chuyển từ “khai thác biển” sang “kiến tạo kinh tế biển”. Muốn vậy, Việt Nam cần tạo ra 3 chuyển đổi chiến lược.
Chuyển đổi thứ nhất là nâng cao năng suất tổng hợp (TFP) của kinh tế biển, dựa trên nền tảng công nghệ và dữ liệu. Cần số hóa dữ liệu hải dương học, nâng cấp công nghệ bảo quản, chế biến thủy sản, phát triển công nghệ sản xuất thiết bị biển và công nghệ vận hành cảng thông minh. Công nghệ chính là chìa khóa để kinh tế biển Việt Nam thoát khỏi phân khúc giá trị thấp.
Bước sang thế kỷ XXI, khi chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc mạnh mẽ và các ngành kinh tế xanh cùng thương mại biển trở thành động lực tăng trưởng mới, biển đã trở thành “tấm hộ chiếu địa kinh tế” đưa Việt Nam tiến sâu vào dòng chảy kinh tế quốc tế. Không nhiều quốc gia sở hữu lợi thế chiến lược quý giá như vậy.
Chuyển đổi thứ hai là tăng tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa (DVA) thông qua phát triển công nghiệp hỗ trợ biển. Việt Nam cần hình thành các cụm công nghiệp biển tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng Ninh để sản xuất linh kiện turbine, vật liệu cho kết cấu ngoài khơi, thiết bị hàng hải và các dịch vụ hậu cần ven biển. FDI phải được thu hút có chọn lọc, đi kèm yêu cầu chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực.
Chuyển đổi thứ ba là mở rộng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế (IMA) bằng cách phát triển hạ tầng, logistics biển hiện đại. Cái Mép - Thị Vải cần được nâng lên thành trung tâm trung chuyển quốc tế; đường sắt ven biển cần được xây dựng để kết nối với các cụm công nghiệp; dịch vụ logistics lạnh, logistics số, logistics 24/7 cần được phát triển mạnh để giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh.
Khi 3 trụ cột TFP - DVA - IMA được kích hoạt đồng bộ, kinh tế biển sẽ trở thành động lực chiến lược của Việt Nam. Và khi đó, biển không chỉ là nơi bắt đầu của những chuyến tàu, mà còn là nơi bắt đầu của một tầm nhìn mới: tầm nhìn về một Việt Nam tự chủ, xanh, hiện đại và hội nhập sâu với thế giới.
Biển đẹp, nhưng giá trị thật sự của biển nằm ở năng lực tổ chức không gian phát triển, nâng cấp doanh nghiệp, cải cách thể chế và tái cấu trúc chuỗi giá trị. Biển là tương lai của Việt Nam, nếu Việt Nam dám thay đổi, dám nghĩ lớn và dám bước ra thế giới bằng sức mạnh của một quốc gia biển mạnh, chứ không chỉ là một quốc gia bên bờ biển đẹp.