Nâng hạng tạo thêm động lực

(ĐTTCO) - Một vấn đề đang được quan tâm hiện nay là bao nhiêu tiền sẽ đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng. 
Nâng hạng tạo thêm động lực

Nếu đó là con số nhỏ, việc nâng hạng có lẽ không thực sự cấp bách. Nhưng nếu đó là con số lớn, thậm chí rất lớn, việc nâng hạng cần phải đặc biệt ưu tiên. ĐTTC trích đăng ý kiến của ông Nguyễn Đức Hùng Linh (Giám đốc) và bà Lê Huyền Trang (Chuyên viên) phân tích và tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân (SSI).

Các ý kiến tập trung phân tích và ước tính lượng vốn nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng, và tiếp cận theo hai hướng: phân tích quy mô các quỹ đầu tư vào thị trường mới nổi và phân tích tác động của nâng hạng lên dòng vốn nước ngoài trong 1 trường hợp điển hình là Pakistan.

871 triệu USD?

 Con số 871 triệu USD từ các quỹ chuyên dùng MSCI EM Index làm tham chiếu chỉ là phần nhỏ của dòng vốn nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng. Theo đó, một lượng tiền lớn đổ vào trong thời gian ngắn, tập trung chủ yếu vào các CP vốn hóa lớn nhất, có tác động nhiều nhất đến chỉ số, chắc chắn sẽ là động lực mạnh cho tăng trưởng của TTCK.
Theo thống kê của EPFR Global, hiện tại có 491 quỹ đầu tư trên toàn cầu đang sử dụng MSCI Emerging Markets Index làm chỉ số tham chiếu với tổng tài sản 435 tỷ USD, trong đó ETF là 22 quỹ với 44 tỷ USD và 469 quỹ tương hỗ với 391 tỷ USD. Giống như các ETF đầu tư vào Việt Nam, khi chỉ số tham chiếu, các quỹ sẽ phải cơ cấu lại danh mục để cho giống với chỉ số đó nhất.
Vì thế, nếu được MSCI nâng hạng lên Emerging Market, các CP đủ điều kiện của Việt Nam đương nhiên sẽ được bổ sung vào trong chỉ số MSCI Emerging Markets Index, và vì vậy các quỹ đang sử dụng chỉ số này làm tham chiếu sẽ tự động mua các CP của Việt Nam. Tổng giá trị mua phụ thuộc vào tỷ trọng của Việt Nam trong chỉ số. MSCI Emerging Markets Index hiện bao gồm hơn 800 CP thuộc 24 nước (tính cả Pakistan). Những thị trường có tỷ trọng lớn nhất là Trung Quốc 26,92%; tiếp theo là Hàn Quốc, Đài Loan lần lượt 14,75% và 12,1%. Pakistan có tỷ trọng thấp đứng thứ 2 từ dưới lên là 0,17%.

Tỷ trọng của từng nước trong chỉ số không hoàn toàn phụ thuộc vào tổng vốn hóa của TTCK nước đó, mà phụ thuộc nhiều hơn vào những CP lớn, đủ điều kiện để vào chỉ số. Đây cũng chính là các CP để MSCI xem xét đánh giá nâng hạng thị trường với 3 tiêu chí: vốn hóa ≥ 1.269 tỷ USD; vốn hóa tự do chuyển nhượng ≥ 635 triệu USD và ATVR ≥ 15%. Nếu so sánh với Pakistan, tổng vốn hóa thị trường và các CP lớn của Việt Nam có phần nhỉnh hơn.
Cụ thể tổng vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam là 101 tỷ USD (Pakistan 94 tỷ USD). CP lớn nhất của Pakistan là Oil & Gas Development Company có vốn hóa 6,5 tỷ USD, thấp hơn nhiều CP vốn hóa lớn nhất Việt Nam là Vinamilk (9,2 tỷ USD). Nếu so sánh với Peru, tổng vốn hóa thị trường của Việt Nam và Pakistan đều lớn hơn, tuy nhiên tỷ trọng của Peru lại lên tới 0,35%, cao gấp đôi Pakistan do Peru có một số công ty lớn với tỷ lệ tự do chuyển nhượng cao. 

Ước tính một cách thận trọng, giả định Việt Nam có tỷ trọng 0,2% trong chỉ số MSCI Emerging Markets Index. Với tỷ trọng này, tổng lượng tiền các quỹ đang sử dụng MSCI Emerging Markets Index làm tham chiếu phải mua các CP đủ điều kiện của Việt Nam là 871 triệu USD.


Những điểm lưu ý

Theo thống kê của MSCI, hiện có tới 1.600 tỷ USD tài sản đang sử dụng các bộ chỉ số liên quan đến Emerging Market của MSCI. Điều này có nghĩa lượng tiền thực tế từ các quỹ sử dụng chỉ số của MSCI sẽ lớn hơn nhiều con số  871 triệu USD. Ngoài MSCI còn có 2 tổ chức cung cấp chỉ số khác là FTSE Russell và S&P Dow Jones.  Hiện cũng có nhiều quỹ đang sử dụng chỉ số của 2 tổ chức này.
Theo thống kê của EPFR Global, có 6 quỹ đang dùng FTSE Emerging Markets Index làm tham chiếu, trong đó có 3 ETF và 3 quỹ tương hỗ, tổng giá trị tài sản đang quản lý là 5,1 tỷ USD. Tương tự MSCI, FTSE Russel có nhiều chỉ số liên quan đến Emerging Market, trong đó chỉ riêng 1 chỉ số là FTSE Emerging Markets All Cap China A Inclusion Index đã có 1 quỹ của Vanguard với quy mô tới 51 tỷ USD làm tham chiếu. Điều này có nghĩa lượng tiền từ các quỹ sử dụng chỉ số của FTSE Russell và S&P Dow Jones đổ vào Việt Nam cũng rất lớn.

Ngoài nhân tố khách quan là quy mô tài sản của các quỹ, còn có nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến lượng tiền đổ vào Việt Nam là vốn hóa, đặc biệt là tỷ lệ tự do chuyển nhượng trong các công ty vốn hóa lớn, yếu tố quyết định tỷ trọng của CP trong chỉ số.
Thí dụ, tại Peru, Southern Copper Corp có vốn hóa 8,4 tỷ USD nhưng chỉ chiếm tỷ trọng gần 0,1%, trong khi Credicorp có vốn hóa 3,7 tỷ USD nhưng có tỷ trọng gần 0,2% do tỷ lệ tự do chuyển nhượng của Credicorp l65% so với Southern Copper Corp là 11%. Điều này có nghĩa Việt Nam có thể nâng được tỷ trọng, tăng dòng tiền vào nếu có chiến lược sớm về thoái vốn, tăng tỷ lệ tự do chuyển nhượng bên cạnh việc thúc đẩy các công ty lớn lên sàn. 

Dòng tiền đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng đương nhiên sẽ không chỉ đến từ những quỹ đầu tư theo chỉ số. Lúc đó sẽ có nhiều quỹ, nhiều nhà đầu tư khác quan tâm do độ mở, khả năng đầu tư và tính công khai minh bạch của Việt Nam đã lên một tầm cao mới. Đây mới là yếu tố hấp dẫn mang tính dài hạn của TTCK Việt Nam.
So với Pakistan, hiện tại Việt Nam đã vượt về quy mô cũng như số lượng công ty niêm yết. Ở thời điểm nâng hạng trong tương lai, số lượng CP Việt Nam thỏa mãn điều kiện của MSCI có thể còn cao hơn Pakistan. Điều này rất quan trọng để tăng tỷ trọng của Việt Nam, trực tiếp tác động đến dòng vốn. 

Các tin khác