Nhận định tổng quan kinh tế 2013

LTS: Tình hình kinh tế hiện nay cho thấy cùng lúc có nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết ngay. Song lại xuất hiện tình thế "lưỡng nan", do đó để giải quyết các bức xúc này đôi khi cần rất nhiều thời gian. Bởi nhiều hiện tượng kinh tế hiện nay có nguồn gốc dồn tích lại từ nhiều năm về trước. ĐTTC trích đăng một số ý kiến, đề xuất của các chuyên gia về những việc cần làm ngay trong năm 2013.

LTS: Tình hình kinh tế hiện nay cho thấy cùng lúc có nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết ngay. Song lại xuất hiện tình thế "lưỡng nan", do đó để giải quyết các bức xúc này đôi khi cần rất nhiều thời gian. Bởi nhiều hiện tượng kinh tế hiện nay có nguồn gốc dồn tích lại từ nhiều năm về trước. ĐTTC trích đăng một số ý kiến, đề xuất của các chuyên gia về những việc cần làm ngay trong năm 2013.

Trương Đình Tuyển, chuyên gia kinh tế

Tái cơ cấu chưa mang lại kết quả rõ ràng

Cho đến nay, có thể nói chưa có đề án về tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là đầu tư công. Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15-10-2011 chỉ nhằm mục đích xử lý một số vấn đề cấp bách trong đầu tư công, trong đó chủ yếu giải quyết mâu thuẫn giữa các dự án đầu tư và khả năng bảo đảm nguồn vốn, góp phần sắp xếp lại các đề án đầu tư.

Không thể phủ nhận mặt tích cực của đề án này, nó góp phần loại bỏ dự án kém hiệu quả, tình trạng đầu tư phân tán, dở dang, chậm đưa vào khai thác gây lãng phí nghiêm trọng. Nhưng đây chưa phải là đề án cơ cấu thực thụ.

Một đề án thực thụ bao gồm các công đoạn chủ yếu sau: Lập lại quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội gắn với quy hoạch phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ được bố trí trên địa bàn lãnh thổ trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, thúc đẩy liên kết vùng. Thiết lập lại hệ thống phân cấp đầu tư gắn với phân cấp ngân sách.

Cho dù nhiều khó khăn và khối lượng công việc phải làm còn rất lớn, nhưng nhìn về trung và dài hạn, cơ hội tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế đang ở thời điểm chín muồi. Có những cơ sở để tin tưởng rằng, 2013 sẽ là năm vượt khó đi lên, mở ra thời kỳ tăng trưởng mới trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới.

Thực ra Chính phủ đã có đề án với nhiều văn bản liên quan đến nội dung này, điều đó thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Dù vậy, đề án và các văn bản này mới chỉ tập trung giải quyết vấn đề cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước khỏi các ngành nghề không phải là kinh doanh chính, phân công lại trách nhiệm thực hiện vai trò chủ sở hữu nhà nước theo hướng lập lại mô hình "bộ chủ quản" một thời đã bị bãi bỏ.

Đề án cũng đưa ra danh mục các DNNN nắm giữ 100% vốn và nắm cổ phần chi phối với tỷ lệ khác nhau, nhưng chủ yếu dựa vào tình hình hiện tại, thiếu cái nhìn dài hạn trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ, sự phát triển của thị trường trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng; không định lại vai trò của DNNN, đặc biệt của tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước (TĐ, TCT) trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Điểm cốt lõi là không áp đặt kỷ luật thị trường lên TĐ, TCT, tạo dựng môi trường cạnh tranh ở những lĩnh vực ngành nghề mà các TĐ, TCT đang độc quyền kinh doanh hoặc chiếm vị thế thống lĩnh, không đặt ra lộ trình các TĐ, TCT phải công khai minh bạch theo các tiêu chí của công ty niêm yết.

Có thể nói, trong 3 nội dung tái cơ cấu, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) đã xây dựng được đề án khá sớm, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 1-3-2012. Đề án này cũng đề cập được nhiều nội dung theo từng loại hình TCTD (nhà nước, cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô, nước ngoài), đề ra lộ trình triển khai cho từng năm.

Tuy nhiên đây gần như là văn bản định hướng nâng cao chất lượng hoạt động của TCTD, rất nhiều công việc cụ thể gắn với tái cơ cấu TCTD lại không được đề cập chi tiết, nhằm đạt đến mục tiêu, dù trên thực tế NHNN đang triển khai thực hiện.

Đó là những vấn đề sau: (i) Xử lý nợ xấu gắn với việc xử lý các TCTD yếu kém.

(ii) Xử lý tình trạng sở hữu chéo giữa các TCTD và giữa các TCTD và doanh nghiệp. Thậm chí trong đề án vẫn đặt ra nội dung chuyển nợ xấu thành vốn góp của TCTD vào doanh nghiệp vay, tạo ra một hình thức đầu tư chéo mới (nhiều quốc gia đã không cho phép các NHTM thực hiện).

(iii) Không đặt ra lộ trình áp dụng các chuẩn mực quốc tế (basel) trong hoạt động của TCTD.

Chính vì thế, đề án chỉ mang nhiều nội dung định hướng, nên tuy có lộ trình thực hiện từng năm nhưng rất khó triển khai các bước tiếp theo.

Cụ thể, nợ xấu là vấn đề nổi cộm hiện nay được đặt ra từ lâu nhưng việc xử lý rất chậm, như vậy sẽ khó tái cơ cấu các TCTD. Việc xử lý TCTD yếu kém mới chỉ thực hiện thông qua sáp nhập tự nguyện, chất lượng sau sáp nhập thế nào cũng không có sự đánh giá công khai. Có thể nói, qua 1 năm triển khai chương trình tái cơ cấu, Chính phủ đã dành nhiều công sức để xây dựng một hệ thống văn bản.

Tuy nhiên, chất lượng văn bản chưa cao, việc triển khai còn chậm và chưa có những chuyển biến cụ thể trên từng nội dung của tái cơ cấu. Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng cũng chưa được thiết lập theo một chương trình bài bản có mục tiêu, nên kết quả chưa rõ ràng, nhất là đối với khu vực kinh tế trong nước.

Dominic Mellor, Kinh tế trưởng, Ngân hàng ADB Việt Nam

Cần khung tái cơ cấu DNNN

Cải cách DNNN là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài. Việc tái cơ cấu DNNN hiệu quả đòi hỏi sự hình thành các chính sách và khuôn khổ pháp lý toàn diện và tích hợp, cho phép Chính phủ Việt Nam đưa ra các quyết định và hành động rõ ràng.

Hiện Chính phủ đã giao Bộ Tài chính soạn thảo dự thảo Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư trong các doanh nghiệp. Nếu dự thảo tốt, bộ luật này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nền tảng vững chắc cho chính sách và khuôn khổ pháp lý tổng thể cho các DNNN. Cụ thể, chất lượng của bộ luật này phụ thuộc vào các yếu tố sau:

Mục tiêu rõ ràng: (i) Khi bắt đầu quá trình dự thảo, nên có mục tiêu rõ ràng về những vấn đề quan trọng cần được giải quyết theo pháp luật. Việt Nam cần vươn tới mục tiêu này thông qua cách tiếp cận tư vấn toàn diện của Chính phủ, với quan điểm tăng tỷ lệ lợi nhuận trên đầu tư công và doanh nghiệp tổng thể bằng tăng năng suất kinh tế.

(ii) Tích hợp với quá trình hoạch định đầu tư công rộng rãi hơn. Thay vì tập trung quản lý vốn nhà nước trong DNNN, Luật Doanh nghiệp nên hướng dẫn quyết định đầu tư của Nhà nước cho DNNN. (iii) Sự rõ ràng trong phương thức xử lý lợi nhuận chưa phân phối.

Theo đó, vấn đề cần xem xét là mức độ DNNN có thể giữ lại lợi nhuận hoặc có nghĩa vụ trả cổ tức/hoàn trả vốn cho Chính phủ; xem xét Chính phủ cũng như hội đồng quản trị và nhà quản lý có chấp thuận sử dụng phần quỹ chưa phân phối/tiếp tục đầu tư vào các hoạt động hiện có hoặc các hoạt động mới hay không.

Nhận định tổng quan kinh tế 2013 ảnh 1

Tái cơ cấu DN là cơ hội để DN vượt thoát khó khăn. Ảnh: CAO THĂNG

Và câu hỏi được đặt ra ở đây là từng DNNN và tất cả DNNN đang hoạt động hiệu quả ra sao. Vì vậy, cần sự rõ ràng trong tổ chức chức năng sở hữu của Nhà nước, bao gồm việc thực hiện các quyền cổ đông như thế nào. Những tiêu chuẩn mới và hợp lý nên được áp dụng trong quản trị doanh nghiệp, trong đó bao gồm sửa đổi Luật Doanh nghiệp hiện có bằng cách thêm các quy định cụ thể về doanh nghiệp có vốn nhà nước.

 Những điều này nên công bố thông tin và tính minh bạch của từng DNNN và toàn bộ khu vực nhà nước, bao gồm những yêu cầu đối với doanh nghiệp và báo cáo tổng hợp, cùng với hệ thống kiểm soát nội bộ và bên ngoài để đảm bảo việc công bố thông tin hiệu quả.

Khi cải cách DNNN sẽ có tác động đến nhiệm vụ một số bộ, như  Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp... Việc tạo ra một cơ quan liên bộ chịu trách nhiệm giám sát và phối hợp trong công tác cải cách sẽ giúp thúc đẩy quá trình tái cơ cấu DNNN.

Thực tiễn trên thế giới cho thấy thành công trong việc quản lý nghĩa vụ phục vụ cộng đồng bao gồm: (i) Định nghĩa, tính chi phí, khoán, cấp vốn và giám sát một cách chặt chẽ.

(ii) Thực hiện cung cấp các nghĩa vụ thực hiện cộng đồng (CSOs) hiệu quả.

(iii) Cung cấp CSOs chỉ dựa trên cơ sở hoàn lại toàn bộ chi phí. Ta có thể mất một vòng ngân sách để thực hiện đầy đủ những khuôn khổ mạnh mẽ CSOs. Tuy nhiên, theo thời gian, cải cách CSOs sẽ dẫn đến tiết kiệm chi phí đáng kể.

Khi Chính phủ có được sự rõ ràng hơn về chi phí và lợi ích của CSOs, các nhà quản lý DNNN sẽ được tự do thực hiện nhiệm vụ điều hành các DNNN như những doanh nghiệp thành công.

TS. Nguyễn Mạnh Hùng, Viện Kinh tế và Chính trị thế giới

Lạc quan trong thận trọng

Dự báo năm 2013 kinh tế thế giới vẫn phải đối mặt với các thách thức sau: Nền kinh tế thực còn trì trệ, các hoạt động sản xuất và thương mại chưa lấy được đà tăng trưởng mạnh trở lại, mặc dù các thị trường tài chính đã trở nên tốt hơn trước, đặc biệt kể từ quý IV-2012.

Niềm tin kinh doanh vẫn còn ở mức thấp trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi chậm. Bên cạnh đó, rủi ro từ những yếu kém của khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn còn phát tác. Tình trạng nợ leo thang của Hoa Kỳ gây ra tâm lý lo ngại trên thị trường tài chính toàn cầu.

Rủi ro biến động giá dầu mỏ và lương thực, đặc biệt trong bối cảnh Trung Đông và một số khu vực sản xuất ở châu Phi bất ổn và mất an toàn, có thể tác động xấu đến nền kinh tế thế giới. Bất ổn trên bán đảo Triều Tiên có thể tác động tiêu cực đến 2 nền kinh tế lớn của Đông Á (là đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam) là Hàn Quốc và Nhật Bản.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khuyến nghị các nước nên có những chính sách để củng cố đà phục hồi tăng trưởng. Các nước đang phát triển nên thi hành một số chính sách: Tiếp tục chuẩn bị đối phó với những tác động do bất ổn kinh tế thế giới, đặc biệt là các tác động tiêu cực lan truyền từ những nền kinh tế phát triển.

Cần thi hành các chính sách vĩ mô thận trọng. Tạo dựng, củng cố lại các “dư địa” cho các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể triển khai sau này nhằm đối phó với các rủi ro xảy ra. Không nên tiến hành thêm các giải pháp kích cầu, vì điều này có thể dẫn đến lạm phát và nợ gia tăng. Các nước nên cân nhắc các vấn đề cải cách dài hạn hơn, tập trung vào cải thiện nền sản xuất, năng suất lao động.

Tình hình xuất nhập khẩu những tháng đầu năm đã có những chuyển biến tích cực. Ảnh: LONG THANH

Tình hình xuất nhập khẩu những tháng đầu năm đã có những chuyển biến tích cực.
Ảnh: LONG THANH

Những biến động của nền kinh tế thế giới chủ yếu tác động đến nền kinh tế Việt Nam qua 2 kênh chính là xuất, nhập khẩu và đầu tư. Trong khi đó, tình hình xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2013 đã có những diễn biến tích cực.

Xuất khẩu tiếp tục tăng cao và nền kinh tế đạt được xuất siêu trong quý I. Vốn FDI đăng ký và thực hiện trong quý I tăng so với cùng kỳ năm trước. Tuy vậy, nước ta cũng cần chuẩn bị tâm thế đối phó với nhiều rủi ro, khó khăn tiềm ẩn từ bên ngoài.

Một là, biến động giá các mặt hàng quan trọng như dầu mỏ, nông sản (gạo, cà phê), khoáng sản... sẽ tạo ra sức ép mới đối với các doanh nghiệp sản xuất vốn đang trong tình trạng khó khăn và tạo ra sức ép tăng giá hàng hóa.

Hai là, USD và đồng yen giảm giá có thể tạo ra sức ép đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam cần tính đến các chiến lược dài hạn hơn như tham gia tích cực các tiến trình đàm phán FTA, trong đó có việc đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) để có thêm cơ hội mở rộng xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Ba là, với triển vọng các luồng vốn đổ vào nền kinh tế các nước đang phát triển tăng trở lại trong năm 2013, dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam có thể tăng theo. Tuy nhiên, chính sách nới lỏng định lượng của các nền kinh tế này có thể khiến dòng vốn ngắn hạng (nóng) đổ vào Việt Nam, tạo ra bất ổn nếu như thiếu các biện pháp kiểm soát hợp lý.

PSG.TS Bùi Tất Thắng, Viện Chiến lược phát triển

Ưu tiên khôi phục niềm tin

Kinh tế thế giới hiện có nhiều dự báo khác nhau, nhưng hầu hết các ý kiến cho rằng chưa có dấu hiệu tốt lên một cách rõ rệt và đồng đều. So với nhiều năm, 2012 được coi là một trong những năm kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn: cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu tiếp tục sa lầy mà lối thoát chưa thực sự rõ ràng; kinh tế Hoa Kỳ, Nhật Bản không mấy lạc quan; các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil… không còn giữ được phong độ lạc quan như 3-5 năm trước.

Khắp mọi nơi với bầu không khí chung là tăng trưởng chậm lại, thất nghiệp tăng cao, sức mua hạn chế, nợ công nhiều hơn. Các dự báo kinh tế thế giới cho năm 2013 ngày càng có xu hướng thấp hơn những dự báo trước đó. Nghĩa là về đại thể, bức tranh kinh tế thế giới 2013 không khả quan hơn 2012.

Trên các sách báo kinh tế còn xuất hiện những dự báo cho rằng “khủng hoảng kinh tế sẽ lên đỉnh điểm vào năm 2013”. IMF đã điều chỉnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới năm 2013 giảm so với trước.

Nền kinh tế Việt Nam hiện đang ở trong “bẫy tăng trưởng thấp” với tình trạng cắt giảm các đòn bẩy tài chính, thị trường bất động sản đóng băng, hệ thống ngân hàng còn yếu kém, đầu tư của các công ty giảm sút và niềm tin kinh doanh ở mức thấp. Vì vậy, việc triển khai các biện pháp gây dựng lòng tin của người dân và doanh nghiệp trong năm 2013 là cần thiết. Về dài hạn, việc khôi phục niềm tin cần gắn với tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế, để đưa nền kinh tế trở lại lộ trình tăng trưởng bền vững.

Nếu những dự báo trên là đúng, một triển vọng phục hồi kinh tế ngay trong năm 2013 của Việt Nam sẽ không chắc chắn. Có thể những mục tiêu kinh tế lớn của năm 2013 được khẳng định trong Nghị quyết 31/2012/QH13 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013 vẫn sẽ đạt được, như “ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012”.

Nhưng điều quan trọng Nghị quyết 31 nêu rõ: “Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị-xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo”.

Để làm được việc này phải tính tới những giải pháp căn bản, lâu dài. Theo đó, có thể chủ đề trọng tâm của năm 2013 là khôi phục lòng tin kinh doanh, duy trì động lực tăng trưởng. Nếu không khôi phục được lòng tin, các nguồn lực tăng trưởng sẽ không được huy động để đưa vào sản xuất kinh doanh, sẽ có ít hơn doanh nghiệp đăng ký mới và nhiều hơn doanh nghiệp cầm chừng hoặc ngưng hoạt động. Hệ quả là tình hình kinh tế vẫn sẽ tiếp tục gặp khó khăn.

Theo báo cáo chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2012 của Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam (VCCI), lần đầu tiên kể từ khi thực hiện khảo sát PCI từ năm 2005, nhóm nhà đầu tư ngoại tỏ ra kém lạc quan nhất, chỉ có 33% trong số này cho biết có ý định mở rộng hoạt động kinh doanh trong vòng 2 năm tới. Đây là con số thấp kỷ lục, giảm nhiều so với tỷ lệ 46% của năm 2011 và 69% của năm 2010.

Tiềm năng tăng trưởng và ổn định vĩ mô của năm 2013 còn phụ thuộc đáng kể vào cách thức triển khai trên thực tế việc thực hiện “đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế”.

Đó là các cách thức xử lý nợ xấu của các TCTD, cách thức triển khai tái cấu trúc các TĐ kinh tế nhà nước; những động thái thể hiện tính nhất quán trong chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, những chính sách cải thiện sức mua và thu nhập thực của một bộ phận người lao động; xử lý vấn đề độc quyền doanh nghiệp và cơ chế kiểm soát giá; cách thức giải quyết vấn đề của thị trường bất động sản; vấn đề quản lý vàng; quản lý tài nguyên và môi trường...

Các tin khác