Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu BIDV, đối với doanh nghiệp và bên vay, Thông tư 02 giúp các doanh nghiệp, bên vay (gồm cả vay tiêu dùng) giảm áp lực tài chính, áp lực trả nợ và nợ xấu khi được cơ cấu lại và không phải chuyển nhóm nợ, đồng thời tiếp tục được tiếp cận vốn vay mới (do được giữ nguyên nhóm nợ), giúp doanh nghiệp, bên vay có nguồn vốn duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, qua đó góp phần phục hồi và phát triển KTXH năm 2023 và tiếp theo.
Đối với Thông tư 03 (hiệu lực từ nay đến hết ngày 31-12-2023), sẽ cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) được mua lại trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đã bán trước đó mà không cần chờ sau 1 năm như qui định cũ.
Điều khoản trên sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp phát hành TPDN có dòng tiền để xử lý một phần lượng TPDN đáo hạn trong năm 2023 (tập trung vào Quý 2 và Quý 4), qua đó doanh nghiệp có thể dùng nguồn vốn đang có để duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi và phát triển KTXH.
Doanh nghiệp gặp khó khăn, sản xuất và đầu tư đình đốn, khiến nợ xấu có nguy cơ tăng cao đang trở thành nỗi ám ảnh các tổ chức tín dụng hiện nay. Ảnh minh họa |
Điều kiện để các doanh nghiệp được cơ cấu nợ áp dụng theo quy định của hai thông tư trên là doanh nghiệp phải tuân thủ đúng các quy định pháp luật, không có sai phạm.
Trong khi đó, đối với các TCTD, Thông tư 03 cho phép các TCTD cơ cấu lại nợ, không chuyển nhóm nợ đối với một số doanh nghiệp, bên vay với điều kiện và thời hạn nêu trên, qua đó góp phần giảm một phần áp lực nợ xấu và duy trì cho vay đối với doanh nghiệp, bên vay được cơ cấu lại.
Đồng thời, nhằm đảm bảo đánh giá sát tình hình nợ và có nguồn lực xử lý nợ xấu (nếu xảy ra), các TCTD vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng bổ sung theo lộ trình (50% năm 2023 và đủ 100% đến hết năm 2024), có phần bớt áp lực trích lập dự phòng rủi ro.
Tuy nhiên, như khi thực hiện các Thông tư về cơ cấu lại nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 giai đoạn 2020-2021, nhiều TCTD sẽ chủ động đánh giá nợ, trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro từ trước và hiện nay mức độ bao phủ nợ xấu của hệ thống TCTD khá tốt (125% nợ xấu).
Ở tầm vĩ mô, đối với an toàn hệ thống tài chính – tín dụng, nhóm tác giả BIDV đánh giá 2 thông tư nói trên có thể xem là những quyết sách mạnh, được doanh nghiệp, người dân và TCTD kỳ vọng với một số tác động chính như giúp ngăn gia tăng nợ xấu nội bảng của các TCTD, tăng khả năng tiếp cận vốn của DN, của bên vay, hỗ trợ thanh khoản, khó khăn của thị trường TPDN trong năm 2023 và đến giữa năm 2024, qua đó góp phần tháo gỡ khó khăn về dòng tiền, dòng vốn cho doanh nghiệp, người dân, duy trì SXKD, đầu tư, tiêu dùng, tạo dòng tiền mới để trả nợ đáo hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Để chính sách đạt được hiệu quả theo mục tiêu đã đề ra, theo nhóm nghiên cứu BIDV, các cơ quan chức năng cần phải nghiêm túc thực hiện các quy định đã nêu. Bên cạnh đó, cần phải đẩy nhanh chương trình phục hồi và giải ngân đầu tư công, tiếp tục chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế nhằm thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, vừa hỗ trợ giải tỏa vốn ngân sách tồn đọng, nợ đọng giữa các doanh nghiệp với nhau, vừa góp phần phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng năm 2023 và lâu dài.
Đồng thời, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả trong phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác). Ngoài ra, các TCTD sớm có hướng dẫn nội bộ, chủ động đánh giá, theo dõi, trích lập DPRR, kiểm tra giám sát đảm bảo thực hiện đúng, giảm thiểu trục lợi, hướng dẫn và phối hợp truyền thông, triển khai thành công.
Mặt khác, Bộ Tài chính cần sớm có điều chỉnh điều kiện phát hành TPDN ra công chúng phù hợp hơn, phê duyệt nhanh hơn, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp phát hành ra kênh này nhiều hơn, cùng với việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường TPDN lành mạnh, an toàn, hiệu quả.