Khi lòng động mạch vành bị mảng xơ vữa gây hẹp đến mức dòng máu chảy qua không đủ để đáp ứng được nhu cầu nuôi dưỡng cơ tim, sẽ gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ ở vùng cơ tim do nhánh động mạch vành đó phụ trách.
Tình trạng hẹp tắc lòng động mạch vành có thể diễn tiến trong một thời gian dài nhưng cũng có thể diễn tiến nhanh chóng trong vài phút, vài giờ. Nếu bệnh diễn tiến từ từ và trong một thời gian dài gọi là hội chứng vành mạn. Nếu bệnh diễn tiến nhanh chóng, dồn dập là hội chứng vành cấp.
Hội chứng vành mạn
Hội chứng vành mạn
Tên gọi “hội chứng vành mạn” mới được dùng trong năm 2019. Trước đây, hội chứng này còn có các tên gọi khác là bệnh động mạch vành mạn, bệnh động mạch vành mạn tính - ổn định. Về bản chất, đây chỉ là một hội chứng chứ chưa phải là bệnh, vì có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh, trong đó xơ vữa động mạch chỉ là một nguyên nhân thường gặp trong những nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ - mạn tính.
GS.TS.BS Trương Quang Bình,
Phó Giám đốc Bệnh viện,
Giám đốc Trung tâm Tim mạch
Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Phó Giám đốc Bệnh viện,
Giám đốc Trung tâm Tim mạch
Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Sinh lý bệnh của hội chứng vành mạn là về những yếu tố nào có thể gây nên tình trạng thiếu máu cục bộ cho vùng cơ tim. Thiếu máu cục bộ ở đây nói về tình trạng thiếu máu cho một vùng của cơ tim chứ không phải là thiếu máu đi về tim hoặc thiếu máu cung cấp cho toàn bộ cơ tim.
Vì sao lại thiếu máu cục bộ, vì sao thiếu máu chỉ cho một vùng cơ tim. Ở hội chứng vành mạn chúng ta có sự hẹp tương đối cố định ở lòng mạch vành của một nhánh động mạch vành. Nếu có sự tắc hoàn toàn, yếu tố chính gây nên tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim là do mất hẳn dòng máu đến tưới cho vùng cơ tim.
Nhưng nếu lòng động mạch vành chỉ bị hẹp, hiện tượng thiếu máu cơ tim cục bộ sẽ chỉ xảy ra khi bị mất quân bình của cán cân cung cấp - nhu cầu.
Khi nào sẽ có tình trạng mất quân bình cán cân cung cấp - nhu cầu oxy cho cơ tim? Mất quân bình của cán cân này xảy ra khi tình trạng cung cấp máu không đủ và/hoặc khi nhu cầu oxy cơ tim tăng quá mức. Khi tình trạng hẹp lòng động mạch vành đến mức dòng máu qua chỗ hẹp không thể đảm bảo được nhu cầu cho cơ tim lúc người bệnh nghỉ ngơi (không gắng sức) sẽ làm mất cân bằng cán cân cung - cầu. Tuy nhiên cán cân này cũng sẽ mất cân bằng trong trường hợp mức độ hẹp lòng động mạch ở mức độ vừa phải, dòng máu qua chỗ hẹp này đủ cung cấp cho cơ tim ở trạng thái nghỉ, nhưng lại không đủ cho nhu cầu của cơ tim khi nhu cầu oxy tăng lên trong tình trạng phải hoạt động nhiều hơn bình thường.
Như vậy, trong trường hợp hội chứng mạch vành ổn định, mạn tính, tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ chỉ xảy ra khi cơ tim phải hoạt động nhiều hơn (so với trạng thái nghỉ) hay nói cách khác là các biểu hiện của hội chứng sẽ xuất hiện khi người bệnh gắng sức.
Tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ có thể gây ra nhiều triệu chứng, thường gặp nhất là triệu chứng đau ngực. Người bệnh có thể bị đau ngực lúc gắng sức về thể lực (hoạt động thể lực mạnh, sau bữa ăn no) hay gắng sức tâm lý (tức giận, buồn phiền…). Khi tình trạng thiếu máu cơ tim xuất hiện (lúc gắng sức), ngoài triệu chứng đau thắt ngực ra còn có thể có các triệu chứng khác như khó thở, hồi hộp, đánh trống ngực, vã mồ hôi…
Đau thắt ngực một cách điển hình trong hội chứng động mạch vành mạn là đau ngực xảy ra lúc gắng sức; đau ngay sau xương ức; cảm giác đau như bóp nghẹt, như dao đâm; đau lan lên vai trái, hàm trái, cánh tay trái, cẳng tay trái, bàn tay trái; đau giảm đi khi người bệnh nghỉ tĩnh hoặc khi ngậm dưới lưỡi thuốc nitroglycerine. Khi có những triệu chứng trên, người bệnh cần đến ngay bác sĩ chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán xác định bệnh.
Hội chứng vành cấp
Hội chứng vành cấp
Để hiểu được những biểu hiện của hội chứng vành cấp chúng ta cần xem xét về sinh lý bệnh của hội chứng này. Khi một mảng xơ vữa của thành động mạch vành bị nứt vỡ hay bị bào mòn đến mức làm lộ các thành phần khác trong mảng xơ vữa sẽ dẫn đến việc hình thành huyết khối ngay tại chỗ nứt vỡ này. Huyết khối lớn lên nhanh chóng và sẽ gây tắc hoặc hẹp rất nặng nề lòng động mạch vành.
Tình trạng tắc hoặc hẹp nặng nề lòng động mạch vành này làm cho dòng máu không đến (hoặc đến rất ít) nuôi vùng cơ tim mà nhánh động mạch vành này phụ trách nuôi dưỡng. Và như vậy, vùng cơ tim này bị thiếu máu nuôi rất nặng nề, rất trầm trọng. Tình trạng thiếu máu nuôi cơ tim này hiện diện ngay lúc cơ tim ở trạng thái không gắng sức. Mất cân bằng cán cân cung - cầu oxy cơ tim xảy ra do giảm cung cấp trầm trọng dù rằng không có trạng thái tăng nhu cầu oxy cơ tim. Hay nói cách khác là đau thắt ngực xảy ra lúc nghỉ tĩnh.
Như vậy biểu hiện của hội chứng vành cấp vẫn là triệu chứng đau ngực nhưng triệu chứng này có những đặc điểm khác với đau thắt ngực trong hội chứng vành mạn. Cụ thể, đau ngực xảy ra lúc nghỉ tĩnh, đau ngực kéo dài trên 15 phút, đau ngực với cường độ dữ dội (làm người bệnh không chịu nổi), đau ngực không giảm đi khi người bệnh ngậm nitriglycerine dưới lưỡi, đau ngực kèm theo những biểu hiện nặng nề (vã mồ hôi, tụt huyết áp, nhịp tim chậm, ngất, ngừng tim…).
Nếu người bệnh đau ngực sau xương ức mà có kèm với một (hay nhiều hơn một) trong những tính chất nêu trên cần phải đến ngay bệnh viện có chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán và điều trị sớm nhất, vì đây là dạng bệnh cấp cứu, rất nguy hiểm, cần được điều trị càng nhanh càng tốt.