(ĐTTCO) - Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được công bố tuần qua có một nội dung khảo sát quan trọng là đánh giá của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) về môi trường kinh doanh. Nhận xét về số lượng chiếm đến 97,6% DNNVV Việt Nam hiện nay trong cuộc trao đổi với ĐTTC, ông ĐẬU ANH TUẤN (ảnh), Trưởng ban Pháp chế (Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam), cho biết:
Phần lớn DNNVV hình thành từ hộ kinh doanh, đi lên từ các mô hình sản xuất gia đình, cá thể nhỏ lẻ, khi có cơ hội kinh doanh thì thành lập DN. Khảo sát PCI 2015 cho thấy có tới 77% DN siêu nhỏ và 69% DN nhỏ đi lên từ mô hình hộ kinh doanh. Trình độ học vấn chung của chủ DNNVV tương đối cao và xuất thân đa dạng. Theo đó, đa phần chủ DNNVV tốt nghiệp đại học (gần 60%); một số chủ DN từng là lãnh đạo trong các cơ quan nhà nước (3-5%), một số từng làm công tác quản lý tại DNNN (8-11%) và có không ít người đã từng làm nhân viên tại DNNN (14-15%). Hiện nay, các DNNVV phụ thuộc vào thị trường nội địa. Chỉ 3% DN siêu nhỏ, 4% DN nhỏ và gần 9% DN quy mô vừa có khách hàng là các cá nhân, DN ở nước ngoài. Ngay cả các DN lớn trong nước, việc vươn được ra thị trường nước ngoài vẫn ở một tỷ lệ rất khiêm tốn (24%).
Những con số trên góp phần lý giải cho tỷ trọng 70,7% của khối DN FDI trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2015. Và với thực trạng này DN Việt Nam cần phải chuẩn bị nhiều hơn để tận dụng các cơ hội thương mại đến từ các hiệp định lớn như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu (EVFTA), hay Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
PHÓNG VIÊN: - Thống kê có chỉ ra vì sao DNNVV khó lớn, thưa ông?
![]() |
Ông ĐẬU ANH TUẤN: - Theo báo cáo, nguyên nhân do DN gặp nhiều khó khăn khi mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều hạn chế trong nắm bắt cơ hội thị trường. Thực tế trong quá trình hoạt động kinh doanh, cảm nhận về thị trường, lợi nhuận hay sự hỗ trợ của chính quyền địa phương không được như kỳ vọng lúc khởi sự. Khoảng 20% DN siêu nhỏ và 14% DN quy mô nhỏ và vừa nhận thấy những cơ hội thị trường kém hơn so với kỳ vọng ban đầu, trong khi đó con số này của các DN quy mô lớn chỉ là 6%. Khoảng 32% DN siêu nhỏ, 29% DNNVV cho biết khả năng cạnh tranh trên thị trường tệ hơn so với kỳ vọng, con số này của các DN quy mô lớn là 22%. Thực tế cho thấy kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV năm 2014 tệ hơn nhiều so với các DN lớn. Tỷ lệ các DNNVV thua lỗ tương đối cao: 32% DN siêu nhỏ, 17% DN nhỏ và 16% DN quy mô vừa đã mất vốn trong năm gần nhất, trong khi chỉ khoảng 10% DN lớn cùng chung cảnh ngộ này.
Đánh giá về môi trường kinh doanh tại các địa phương năm 2015, DNNVV có cảm nhận tiêu cực hơn các DN lớn trên một số lĩnh vực như tiếp cận đất đai, tính minh bạch, cạnh tranh bình đẳng và hỗ trợ DN. Khoảng 75% DNNVV cho biết họ phải cậy nhờ đến các mối quan hệ để tiếp cận thông tin. Bên cạnh đó, 54% DN siêu nhỏ và nhỏ cho biết “thỏa thuận về các khoản thuế phải nộp với cán bộ thuế là công việc quan trọng trong kinh doanh”. Khoảng 65% DN nhỏ và siêu nhỏ cho biết hiện tượng chi trả chi phí không chính thức là thường xuyên. Không những vậy, DNNVV cũng khó tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ DN. Chỉ 20-30% DN cho biết đã từng sử dụng các dịch vụ này. Ngoài ra, chỉ 51-61% DNNVV có thông tin về các chính sách ưu đãi của các cơ quan trung ương và địa phương, thấp hơn nhiều so với nhóm DN lớn (77%).
- Vậy đâu là những gánh nặng khiến DNNVV ngại lớn, thưa ông?
DNNVV mới bắt đầu hội nhập nên chưa có nhiều kinh nghiệm, tư duy kinh doanh theo kiểu tiểu nông nghiệp vẫn còn nặng nề. Song nguyên nhân chính do trong thời gian dài Nhà nước ưu đãi cho các thành phần kinh tế khác làm cho DNNVV ốm yếu, không có động lực và điểm tựa để đi lên. |
- Đầu tiên là thanh, kiểm tra. Năm ngoái có tới 74% DN đón tiếp các đoàn thanh kiểm tra trong tất cả lĩnh vực. Có một hiện tượng đáng lo ngại là DN có quy mô càng lớn, gánh nặng về thanh kiểm tra càng cao. Các DNNVV thông thường phải tiếp đón 1-2 cuộc thanh kiểm tra (trung vị) trong năm. Với DN quy mô lớn, con số này là khoảng 3 cuộc. Ngoài ra, 25% DN siêu nhỏ, DN nhỏ và 30% DN vừa cho biết nội dung thanh kiểm tra bị trùng lặp. Bên cạnh đó, nhiều DN cho biết các thủ tục hành chính về bảo hiểm xã hội, đất đai, hải quan, an toàn cháy nổ, lao động, bảo vệ môi trường và thanh toán qua kho bạc… đang gây rất nhiều phiền hà cho DN. Đặc biệt, DNNVV thời gian qua chưa phát triển mạnh mẽ bởi còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn lực như đất đai, vốn, khó khăn trong nắm bắt thông tin chính sách và pháp luật, chịu gánh nặng về chi phí không chính thức, chưa được hưởng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chất lượng cao với chi phí phù hợp. Báo cáo còn cho thấy thực tế đáng lo ngại là quy mô DN càng lớn, gánh nặng về thủ tục hành chính, thanh, kiểm tra của các cơ quan nhà nước càng gia tăng.
- Theo ông, giải pháp nào để tháo gỡ những bất cập này nhằm tạo động lực giúp DNNVV phát triển trong thời gian tới?
- Cần thiết kế các chính sách hỗ trợ DNNVV phù hợp với các giai đoạn phát triển của DN. Đối với giai đoạn mới thành lập và đi vào hoạt động, cần giúp các DN ứng phó với các thách thức về tiếp cận vốn, tiếp cận đất đai, tìm kiếm khách hàng, nhà cung cấp, hỗ trợ về thủ tục hành chính. Cùng với đó nâng cao hiệu quả công tác thông tin về chính sách, pháp luật liên quan tới khu vực DNNVV. Các thông tin về quy hoạch, kế hoạch tại các địa phương cần cập nhật thường xuyên trên cổng thông tin của các tỉnh, thành phố, nên là những thông tin chi tiết, dễ sử dụng đối với DNNVV. Cải thiện tính minh bạch của môi trường kinh doanh cũng là cách giảm bớt và xóa bỏ các chi phí không chính thức DNNVV đang phải gánh chịu.
Bên cạnh đó là cải thiện chất lượng các dịch vụ hỗ trợ DN, trong đó cần xác định đúng đối tượng thụ hưởng là DNNVV. Các cơ quan chính quyền địa phương cần tính toán rút khỏi việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ hỗ trợ DN và chuyển giao cho các hiệp hội và khu vực tư nhân thực hiện chức năng này. Nhà nước nên tập trung vào chức năng hoạch định chính sách và giám sát chất lượng dịch vụ; cắt giảm các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ hiểu và dễ tiếp cận, đặc biệt là những lĩnh vực DNNVV gặp nhiều phiền hà như bảo hiểm xã hội, đất đai, thuế, hải quan, an toàn phòng chống cháy nổ...
- Xin cảm ơn ông.