Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh |
Tiếp theo, Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) sửa đổi. Cơ quan trình và cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Mở đầu phiên thảo luận, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo, tại Kỳ họp thứ 5 các đại biểu Quốc hội đã cho ý kiến đối với dự án Luật Các TCTD sửa đổi. Ngay sau kỳ họp, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan đã phối hợp chặt chẽ, nghiên cứu kỹ lưỡng, có trách nhiệm để tiếp thu, chỉnh lý giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội, ý kiến tham gia của các đoàn đại biểu Quốc hội; các cơ quan, tổ chức chỉnh lý gồm 15 chương và 203 điều, tăng 2 chương và 8 điều. Trong đó, sửa đổi 158 điều so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5.
Theo ông Vũ Hồng Thanh, ngày 21-11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có báo cáo đầy đủ việc tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.
So với dự thảo luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, nhiều nội dung đã được các cơ quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý để dự thảo luật hoàn thiện một cách cẩn trọng, bám sát các đường lối chủ trương nêu tại Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng, nghị quyết của Quốc hội cũng như chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 với nhiệm vụ trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống TCTD.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, cho biết: "Các giải pháp được xem xét trên cơ sở nâng cao tính tự trách nhiệm của TCTD và phù hợp với nguyên tắc thị trường phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính khả thi của các cái quy định. Theo đó, chất lượng của dự thảo luật đã được nâng lên đáng kể".
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, một số nội dung chính đã được tiếp thu chỉnh lý.
Thứ nhất, đã bổ sung một chương với Ngân hàng Chính sách. Đồng thời, để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, điều kiện thuận lợi cho hoạt động và quá trình phát triển của các Ngân hàng Chính sách, đề nghị Chính phủ nghiên cứu xây dựng luật riêng về Ngân hàng Chính sách.
Thứ 2 trên cơ sở đề xuất của Chính phủ tại báo cáo số 612 đã chỉnh lý quy định liên quan đến hạn chế thao túng, chi phối của TCTD, trong đó điều chỉnh quy định về người có liên quan, phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân, điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần với cổ đông là cá nhân là 5% và quy định lộ trình giảm dần giới hạn cấp tín dụng xuống 10% vốn tự có đối với một khách hàng và 15% vốn tự có đối với khách hàng và người có liên quan trong 5 năm nhằm giảm thiểu tác động.
Thứ 3, bổ sung, hoàn thiện nhiều nội dung liên quan đến tài chính hạch toán báo cáo của TCTD. Khái niệm về vốn, doanh thu và nguyên tắc ghi nhận doanh thu từ hoạt động cấp tín dụng, chi phí và nguyên tắc ghi nhận chi phí phân phối lợi nhuận và các quỹ, trong đó bổ sung quy định về tăng vốn điều lệ cho ngân hàng thương mại do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đối với dự phòng rủi ro.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về việc phân loại tài sản có mức trích lập dự phòng rủi ro, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động do Chính phủ quyết định thay vì Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định như dự thảo luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5.
Thứ 4, tiếp thu ý kiến của Kiểm toán nhà Nước đã bỏ quy định liên quan đến trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước tại khoản 1 Điều 168 để phù hợp với quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước.
Ngoài các nội dung nêu trên, tiếp thu ý kiến đại biểu quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bổ sung nhiều quy định như: thư tín dụng, thẩm quyền cấp sửa đổi, bổ sung và thu hồi giấy phép; tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành và một số chức danh khác của TCTD.
Về hoạt động của TCTD phi ngân hàng, xây dựng phương án khắc phục dự kiến, trong trường hợp được can thiệp sớm. Đồng thời tiếp thu chỉnh lý dự thảo luật theo hướng không quy định trách nhiệm của Bộ Công an.
Về áp dụng can thiệp sớm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tại điều 156 tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội dự thảo Luật TCTD theo hướng sớm hơn. Cụ thể là đối với trường hợp lỗ lũy kế của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lớn hơn 15% giá trị của vốn điều lệ vốn được cấp và quỹ dự trữ vi phạm, tỷ lệ khả năng chi trả trong thời gian 30 ngày liên tục đối với phương án thiết kế nội dung về can thiệp sớm trong trường hợp lỗ lũy kế và 2 phương án.
Phương án 1, giữ quyết định TCTD được can thiệp sớm, chỉ căn cứ vào lỗ lũy kế 15%, không kết hợp thêm các điều kiện khác để tránh trường hợp TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể có lỗ lũy kế cao nhưng không được cảnh báo, xử lý kịp thời, bỏ trường hợp rút tiền hàng loạt. Do đây là trường hợp nhiều người gửi tiền cùng rút tiền dẫn đến TCTD mất khả năng chi trả hoặc có nguy cơ mất khả năng chi trả và thuộc trường hợp được xem xét đặt vào kiểm soát đặc biệt theo luật hiện hành.
Phương án 2, các tiêu chí lỗ lũy kế và tiêu chí vi phạm tỷ lệ bảo đảm an toàn như ý kiến của Chính phủ tại báo cáo số 612 vì có một số trường hợp TCTD có độ dài lỗ luỹ kế lớn hơn 15% giá trị vốn điều lệ vốn được cấp dẫn đến lỗ như tăng vốn giảm đầu tư và không bảo đảm tỷ lệ bảo đảm an toàn.
Theo ông Vũ Hồng Thanh, do đa số ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với phương án 1. Vì vậy, báo cáo Quốc hội thảo luận, cho ý kiến để tiếp thu, hoàn thiện về các biện pháp hỗ trợ TCTD được can thiệp sớm tại Điều 159.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo luật bổ sung khá nhiều nội dung mới so với Luật Các TCTD hiện hành về các biện pháp hỗ trợ. Đa số ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bỏ can thiệp sớm, chỉ dùng các biện pháp tự thân, sự tham gia của TCTD khác có nguy cơ dẫn đến tác động lan truyền lây lan rủi ro sẽ ảnh hưởng đến TCTD lành mạnh. Đồng thời quyết định cụ thể về sự hỗ trợ của TCTD khác ở giai đoạn can thiệp sớm sẽ khiến các TCTD có tâm lý ỷ lại thiếu thận trọng hơn trong hoạt động.
Theo ông Vũ Hồng Thanh, Chính phủ nhất trí với phương án này cho rằng việc việc đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt nên được xem xét cân nhắc trên nhiều yếu tố khác nhau. Việc quyết định cứng ngay lập tức đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt cần được cân nhắc thận trọng. Đa số ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với phương án cho rằng đây là nội dung đặc biệt quan trọng của dự thảo luật có quan hệ mật thiết.
Với quy định về can thiệp sớm là căn cứ để xử lý các TCTD có vấn đề, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ an toàn, hoạt động của hệ thống ngân hàng, trong báo cáo của Chính phủ cũng chưa đánh giá đủ rõ và đầy đủ tác động của các chính sách trong dự thảo luật hiện nay.
Về hỗ trợ chi trả tiền gửi đối với người gửi tiền tại TCTD được kiểm soát đặc biệt, cơ quan trình đề nghị giữ quy định này như dự thảo luật trình quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 để có thêm nguồn lực xử lý tổ chức tín dụng được kiểm soát. Đặc biệt, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng cơ chế bảo hiểm tiền gửi cho vay đặc biệt để hỗ trợ chi trả tiền gửi đối với người gửi tiền tại TCTD được kiểm soát đặc biệt, hiện chưa được quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đa số ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng cần bỏ điều này, đồng thời bổ sung quy định tại các cái điều khoản tương ứng của Điều 182 và Điều 183 có sự tham gia của các TCTD được vay đặc biệt, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp định hướng mở rộng sự tham gia của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong quá trình cơ cấu lại các TCTD sẽ được nghiên cứu xem xét khi sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Với lãi suất 0% đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, quy định khoản cho vay, đặc biệt có tài sản bảo đảm và trường hợp cho vay không có tài sản bảo đảm theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, giữ cơ chế xử lý tổn thất cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng hợp tác xã, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội theo hướng bỏ các nội dung liên quan đến TCTD được vay đặc biệt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tín dụng khác và bổ sung quy định TCTD được vay đặc biệt, các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
Bỏ trường hợp ngân hàng nhà nước cho vay đặc biệt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi do các quy định này tiềm ẩn rủi ro lớn đến tài chính của các cơ quan, tổ chức tham gia cũng như đối với hệ thống TCTD. Giữ quy định về việc ngân hàng, hợp tác xã quyết định khoản vay đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt.
Nhìn chung, dự thảo cơ bản bám sát các cái chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của quốc hội. Tuy nhiên, các nội dung tại dự thảo luật liên quan đến can thiệp sớm kiểm soát đặc biệt cho vay đặc biệt cần phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện để mà làm phù hợp với nguyên tắc thị trường và làm an toàn, lành mạnh và ổn định của hệ thống
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng đây là dự án luật rất khó, phức tạp và tính chất nhạy cảm liên quan đến an ninh tài chính quốc gia, an ninh, an toàn của hệ thống các TCTD, ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh tế xã hội với vai trò rất quan trọng của Luật Các TCTD đối với nền tài chính quốc gia, chất lượng của dự án luật là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ hướng thận trọng trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
"Để tránh trường hợp luật sau khi ban hành theo các bản cập sẽ gây nhiều tác động chính là đối với an ninh an toàn, hệ thống ngân hàng và kinh tế xã hội. Vì vậy, việc Quốc hội xem xét chưa thông qua dự thảo luật tại Kỳ họp thứ 6 mà sẽ xem xét thông qua tại kỳ họp sau hết sức cần thiết để các cơ quan có đủ thời gian nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng. Sau Kỳ họp thứ 6, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo tiếp tục chủ trì, thẩm tra cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan rà soát, hoàn thiện dự thảo luật", Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, cho biết đây là luật khó, phức tạp, chuyên sâu, có tầm ảnh hưởng lớn, vì vậy, ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội là rất đáng trân trọng, sẽ được tổng hợp đầy đủ, nghiên cứu kỹ lưỡng để hoàn thiện dự thảo luật.
Thống đốc cho biết, với ý kiến đóng góp của các đại biểu, cơ quan soạn thảo sẽ phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Kinh tế để nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu, giải trình đầy đủ, báo cáo Chính phủ để Chính phủ có báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội tại kỳ họp sau.