Các 'cú đấm thép' kỳ vọng đột phá khi giao quyền tự quyết

(ĐTTCO) - Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty có vốn nhà nước là chủ đạo và đóng vai trò chi phối (gọi chung là DNNN) đang đứng trước ngưỡng cửa một cuộc “lột xác” mới, trở thành những DN “sếu đầu đàn” với những lĩnh vực then chốt.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là một trong hai DN đạt doanh thu kỷ lục.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là một trong hai DN đạt doanh thu kỷ lục.

8/12 dự án thua lỗ đã có phương án xử lý

2018 được xem là năm bước ngoặt của DNNN khi 19 DNNN sở hữu và nắm quyền chi phối được giao về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN (CMSC). Đáng nói, 19 DNNN này gần như bao quát mọi lĩnh vực kinh tế khi hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) trong 16 ngành kinh tế - kỹ thuật, song phát triển không đồng đều, lâm vào bết bát, có DN thua lỗ triền miên, ôm hàng “núi nợ” khổng lồ với những dự án “đắp chiếu” hàng chục năm chưa có phương án giải quyết.

Và “12 đại dự án” thua lỗ của các DNNN trở thành vấn đề nóng bỏng nhất, cả trong các cuộc họp Quốc hội, Chính phủ lẫn trên truyền thông. Bộ Chính trị cũng phải họp để ra quyết định chỉ đạo xử lý dứt điểm. Nhiệm vụ của CMSC khi ấy là phải ngay lập tức có phương án xử lý 12 dự án thua lỗ này.

Kể từ đó, sau 5 năm (2018-2023), nhìn lại hoạt động SXKD của 19 DNNN đã ghi nhận những thay đổi tích cực. Tính đến hết năm 2022, so với thời điểm năm 2018 chuyển về CMSC, theo báo cáo tài chính của các DNNN, tổng vốn chủ sở hữu hợp nhất tăng từ 1.055.618 tỷ đồng lên 1.154.600 tỷ đồng, tổng tài sản hợp nhất tăng từ 2.359.693 tỷ đồng lên 2.490.832 tỷ đồng, nhìn chung các chỉ tiêu SXKD đạt được hàng năm có sự tăng trưởng. Tính riêng trong năm 2022 tổng doanh thu hợp nhất đạt 1.871.050 tỷ đồng, chiếm 20% GDP cả nước (tăng 0,6% so với năm 2018).

Đáng chú ý, 2 DN là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đạt doanh thu kỷ lục, với tổng lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 103.309 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước (NSNN) hợp nhất đạt 227.990 tỷ đồng. Đối với 12 dự án thua lỗ, đến nay đã có phương án xử lý 8 dự án, giao DN chịu trách nhiệm thực hiện.

Cũng sau 5 năm chuyển về CMSC, 19 DNNN đã phê duyệt, triển khai thực hiện và hoàn thành đầu tư 185 dự án nhóm A, 455 dự án nhóm B, thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển với tổng giá trị đầu tư ước 770.000 tỷ đồng.

Theo báo cáo của CMSC mới đây, đến nay mới có 8/12 dự án thua lỗ, chậm tiến độ của ngành Công Thương đã có phương án xử lý. Như vậy, còn 4 dự án, bao gồm dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên; dự án khai thác và tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa; dự án nhà máy gang thép Lào Cai; Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Dung Quất, chưa được xử lý. Hiện CMSC đã trình Thủ tướng 3 phương án xử lý và chờ báo cáo Bộ Chính trị.

Kỳ vọng và băn khoăn

Nhằm tận dụng vai trò mở đường và dẫn dắt của DNNN, Bộ KH-ĐT đang tiến hành xây dựng Đề án DNNN quy mô lớn. Đề án này tập trung chọn lựa các tập đoàn kinh tế quy mô lớn, có khả năng công nghệ và đổi mới sáng tạo, để thúc đẩy đầu tư phát triển trong một số lĩnh vực và ngành mới quan trọng cho nền kinh tế.

Các tiêu chí lựa chọn tập trung vào khả năng tài chính mạnh, quy mô đáng kể, thương hiệu mạnh mẽ, hệ thống quản trị chất lượng, khả năng tiên phong trong công nghệ và đổi mới. 4 nhóm ngành thuộc các thành phần kinh tế khác được lựa chọn thực hiện đề án, gồm công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, tài chính ngân hàng và kết cấu hạ tầng.

Đánh giá về đề án, ông Nguyễn Đức Trung, Phó Cục trưởng Cục Phát triển DN (Bộ KH-ĐT), cho biết đề án sẽ áp dụng một số chính sách thí điểm, chưa được quy định trong các luật hiện hành, đối với các tập đoàn kinh tế được lựa chọn trong vòng 5 năm. Sau đó, sẽ tiến hành tổng kết, đánh giá và điều chỉnh chính sách để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế.

“Quan trọng nhất là trao DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động quản lý điều hành của DN, đặc biệt là các vấn đề quan trọng liên quan đến SXKD” - ông Trung nhấn mạnh.

Dẫu vậy, vẫn còn những băn khoăn, khi từng có giai đoạn các DNNN được tăng tính tự quyết để xây dựng thành các “cú đấm thép”, song đã không đạt được mục tiêu đề ra và lâm vào khủng hoảng, và đến nay những hạn chế từ cấu trúc nội tại của các DNNN vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Đó là các DNNN chưa phát huy hết hiệu quả nguồn lực vốn, tài sản được Nhà nước giao trong việc đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư, kiểm soát chất lượng. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư chưa tập trung vào các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Các DNNN vẫn chưa có sản phẩm, dịch vụ trong các ngành công nghệ cao, công nghệ lõi, có tính chất lan tỏa hoặc có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng DN. Năng lực quản trị và triển khai dự án còn yếu ở nhiều khâu, từ việc chuẩn bị dự án kỹ và toàn diện, lựa chọn nhà thầu đến quản lý đầu tư xây dựng dự án, tổ chức, khai thác, vận hành dự án còn hạn chế.

Theo ông Phạm Văn Sơn, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp CMSC, một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn nhà nước chưa đạt hiệu quả cao do khó khăn về cơ chế, chính sách vẫn chồng chéo. Đơn cử, hiện CMSC cũng như DNNN không có chức năng và quyền hành trong việc điều phối nguồn vốn giữa các DNNN với nhau, dẫn đến tình trạng có DN thừa vốn nhưng không biết đầu tư vào đâu, trong khi lại có DN thiếu vốn để đầu tư kinh doanh, sản xuất. Điều này đang gây lãng phí nguồn lực các DNNN đang nắm giữ.

2 điểm nhấn quan trọng của cuộc “lột xác” các DNNN: vận hành theo cơ chế thị trường và lấy tiêu chí hiệu quả kinh tế để đánh giá; tăng tính tự quyết và tính trách nhiệm.

Các tin khác