
Đầu cơ “chèn lấn” sản xuất
Trong nhiều năm qua, đầu tư vẫn là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (được đo lường bằng hệ số ICOR) của Việt Nam lại ở mức cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, nền kinh tế Việt Nam phải bỏ ra nhiều vốn hơn mới có thể đạt cùng một mức tăng trưởng GDP so với các nước trong khu vực.
Hiện tượng này cho thấy dòng vốn đầu tư chưa được phân bổ ưu tiên vào các lĩnh vực giữ vai trò then chốt cho việc tăng sản lượng và năng suất.
Một trong những nguyên nhân hiệu quả đầu tư thấp là sự phân bổ tín dụng chưa hợp lý. Từ trước đến nay, mỗi khi bắt đầu chu kỳ tăng trưởng mới, dòng vốn tín dụng có xu hướng chảy mạnh vào các hoạt động có tính đầu cơ như ngoại tệ, vàng, bất động sản, tiền điện tử.
Trong khi đó dòng vốn không tập trung vào các ngành sản xuất và công nghệ có giá trị gia tăng cao. Khi dòng vốn tập trung vào các kênh có tính đầu cơ cao, sẽ tạo ra “bong bóng” tài sản mà không góp phần nâng cao năng suất lao động hay hiệu quả sản xuất. Nhiều doanh nghiệp (DN) và cá nhân đổ vốn vào đầu cơ thay vì đầu tư vào sản xuất, làm suy giảm động lực phát triển công nghệ của các ngành kinh tế.

Đầu cơ thực chất là hoạt động kiếm tiền thông qua cơ chế người mua tài sản sau trả tiền lời cho người mua tài sản trước, tài sản luôn nằm trong trạng thái “đóng băng”, không được sử dụng để tạo giá trị cho xã hội. Chính sách điều tiết kinh tế kém hiệu quả, là nguyên nhân chính khiến hành vi đầu cơ trở nên phổ biến.
Cơ chế chính sách tạo cơ hội dễ dàng thực hiện hành vi đầu cơ như đầu cơ không bị đánh thuế, việc tham gia đầu cơ không bị ràng buộc các điều kiện như sản xuất kinh doanh. Khi nhận thấy cơ hội kiếm tiền từ đầu cơ dễ hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhiều người sẽ đổ xô vào hoạt động đầu cơ. Thậm chí, nhiều DN từ bỏ hoạt động sản xuất kinh doanh để đầu cơ với hy vọng kiếm được lợi nhuận nhanh hơn.
Những năm gần đầy, dòng vốn chảy vào tiền điện tử (tiền ảo) ở Việt Nam đang ở mức đáng báo động, mặc dù loại hình đầu tư này chưa được pháp luật công nhận. Trong khi quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé so với nhiều nước trên thế giới, nhưng Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về sở hữu các loại đồng tiền này. Thực tế này cho thấy đây là lĩnh vực đầu cơ hấp thụ dòng vốn khá lớn của nền kinh tế, nhưng không tạo ra giá trị nền tảng về hiệu quả và năng suất cho tăng trưởng bền vững.
Ngoài sự bất hợp lý trong điều hướng dòng vốn, còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và năng suất lao động. Chẳng hạn vốn FDI tập trung vào ngành thâm dụng lao động như lắp ráp, gia công, chưa tạo ra giá trị gia tăng cao. DN nội địa ứng dụng công nghệ còn chậm nên giảm năng suất và khả năng cạnh tranh.
Hệ thống hạ tầng chưa đồng bộ, chi phí logistics chiếm khoảng 16-17% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, làm tăng chi phí sản xuất và giảm hiệu quả đầu tư. Những khó khăn của sản xuất nếu không được giải quyết, sẽ khiến dòng vốn lẩn tránh sản xuất, rồi tìm đến các kênh đầu cơ ngày càng nhiều hơn.
Nắn chỉnh dòng vốn
Để cải thiện hiệu quả đầu tư và năng suất lao động, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng, Việt Nam cần thực hiện một loạt chính sách mang tính căn cơ. Trước hết là hạn chế hoặc ngăn chặn đầu cơ bằng cách áp dụng các biện pháp đánh thuế cao đối với các hành vi đầu cơ, để người tham gia đầu cơ phải chịu nhiều chi phí hơn so với hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi đó, họ nhận thấy tham gia đầu cơ không hiệu quả nên tập trung vốn vào sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh việc áp thuế đối với hoạt động đầu cơ, cần mở rộng cơ hội và lựa chọn cho các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh. Các DN sản xuất và đổi mới công nghệ cần được hưởng ưu đãi thuế thấp hơn, có thêm các chính sách hỗ trợ tài chính và tiếp cận thị trường thuận lợi hơn. Đồng thời cắt giảm các điều kiện kinh doanh không cần thiết, hoặc chồng chéo gây khó cho DN kinh doanh.
Hiện phần lớn dự án sản xuất đều liên quan đến lĩnh vực xây dựng. Quy định hiện hành rất nhiều thủ tục liên quan đến cấp phép và thời gian thẩm định cấp phép thường kéo dài, gây phiền hà rất lớn cho DN. Nên chăng Nhà nước chỉ công bố quy chuẩn chung, việc thiết kế và thẩm tra nên xã hội hóa để tự chịu trách nhiệm tuân thủ, Nhà nước chỉ giữ vai trò hậu kiểm.
Thúc đẩy thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm để tài trợ cho DN sản xuất, đổi mới công nghệ, nông nghiệp công nghệ cao. Thị trường trái phiếu DN cũng cần được phát triển theo hướng ưu tiên cho sản xuất, hạn chế trái phiếu trong lĩnh vực có tính đầu cơ cao. Đồng thời, cần xây dựng các nền tảng gọi vốn cộng đồng minh bạch, giúp nhà đầu tư nhỏ lẻ góp vốn vào các dự án khởi nghiệp thay vì lao vào đầu cơ tài sản rủi ro cao.
Cần chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, phát triển hạ tầng logistics sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Đồng thời, phát triển hạ tầng số sẽ hỗ trợ DN chuyển đổi số, mở rộng khả năng tiếp cận thị trường và tối ưu hóa hoạt động sản xuất kinh doanh; khuyến khích sự phát triển của các startup công nghệ nhằm tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh dòng tín dụng theo hướng ưu tiên sản xuất. Theo đó, cần đảm bảo nguyên tắc lãi suất cao hơn đối với cho vay các hoạt động có tính chất đầu cơ, lãi suất cho vay thấp hơn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều kiện xét duyệt cho vay vốn khắt khe hơn đối với mục đích đầu cơ. Khi đó, sẽ khuyến khích dòng vốn chảy vào các lĩnh vực mang lại giá trị bền vững cho nền kinh tế.
Nguồn vốn của nền kinh tế vốn dĩ rất hạn chế, lại chảy vào đầu cơ, tất nhiên sẽ hạn chế chảy vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đây là một nguyên nhân cản trở quá trình cải thiện hiệu quả đầu tư, năng suất lao động của nền kinh tế khó cải thiện.