Sau những thành quả và khó khăn của Việt Nam trong các năm 2022-2023, thúc đẩy đà phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội là ưu tiên quan trọng trong giai đoạn 2024-2026. Do đó, Việt Nam phải quyết liệt hơn với cải cách thể chế kinh tế để tăng tốc phục hồi tăng trưởng.
Nội dung trên được Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh trong cuộc trao đổi với phóng viên.
Gia tăng Chuyển đổi Số và Chuyển đổi Xanh
- Xin bà chia sẻ những dự báo đánh giá về bối cảnh kinh tế quốc tế 2024-2026 và những tác động liên quan đến Việt Nam?
Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh: Năm 2024 và tiếp theo, kinh tế thế giới có thể tiếp tục đối mặt với rủi ro phục hồi chậm, thậm chí kể cả suy giảm do nguy cơ các cuộc khủng hoảng (trên các lĩnh vực năng lượng, y tế, thực phẩm, môi trường, tài chính) trong bối cảnh chính sách thắt chặt đồng bộ nhằm kiềm chế lạm phát cao, những gián đoạn kéo dài do xung đột Nga-Ukraine, xung đột ở Trung Đông, khủng hoảng Biển Đỏ.
Gần đây nhất, Ngân hàng Thế giới giữ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại vào năm 2024 ở mức 2,4% và hạ dự báo tại năm 2025 xuống còn 2,7% (giảm 0,3% so với dự báo tháng 6/2023). Tuy nhiên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo lạc quan hơn và đưa ra mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 3,1% vào năm 2024 (tăng 0,2% so với dự báo tháng 10/2023) và 3,2% vào năm 2025, nhờ khả năng phục hồi cao hơn kỳ vọng ở Mỹ và một số thị trường lớn mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, cũng như hỗ trợ tài chính của chính phủ Trung Quốc.
Triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu (các năm 2024-2026) có thể sẽ có nhiều bất định hơn. Đà phục hồi ở các nền kinh tế châu Á gắn với các hiệp định thương mại tự do (FTA), điều này có thể tạo thêm động lực để giữ chân nhà đầu tư nước ngoài và thu hút thêm nhà đầu tư mới. Song, những vấn đề cạnh tranh địa chính trị giữa các nền kinh tế lớn sẽ gắn với các tiêu chuẩn mới, thậm chí là các biện pháp can thiệp (trợ cấp) của một số Chính phủ để định hướng hoạt động đầu tư/chuyển hướng đầu tư, có thể ảnh hưởng đến xu hướng dịch chuyển FDI. Hay, việc triển khai thực hiện Cơ chế thuế tối thiểu toàn cầu và các nhóm chính sách liên quan ở nhiều nước cũng có thể ảnh hưởng đến sự dịch chuyển FDI.
Điểm tích cực, đó là hệ sinh thái cho Chuyển đổi Số có thể phát triển sâu sắc hơn. Theo đó, sự gia tăng của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ góp phần tích cực vào quá trình đổi mới, phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới và trong nước. Cụ thể, công nghệ Số hóa giúp tiết kiệm những chi phí không cần thiết trong khu vực công và các lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Số hóa cũng tạo điều kiện tạo ra nguồn dữ liệu lớn, góp phần vào phân tích và đánh giá nền kinh tế một cách chính xác, kịp thời (tính tự động/thông minh hơn), qua đó giúp các nền kinh tế cải thiện năng lực dự báo và ứng phó trước khủng hoảng, cải thiện dịch vụ đồng thời tăng cường khả năng chống chịu trước các cú sốc trong tương lai. Trên cơ sở đó, hợp tác giữa các nước có thể được tăng cường thông qua các hiệp định đối tác Kinh tế Số.
Ngoài ra, quá trình toàn cầu hóa sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt là liên quan đến phát huy và đổi mới hệ thống thương mại đa phương, cụ thể hóa các định hướng, sáng kiến hợp tác thương mại và đầu tư mới, hài hòa lợi ích giữa các nước lớn, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
Mặt khác, các nước sẽ gia tăng hợp tác nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, gắn với các sáng kiến cụ thể nhằm thúc đẩy hiện thực hóa các cam kết tại COP26, đẩy nhanh việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG). Các tiêu chuẩn về phát triển bền vững (đặc biệt là về lao động, môi trường…) sẽ được lồng ghép nhiều hơn vào các sáng kiến, thỏa ước hợp tác quốc tế. Và, các nước cũng sẽ gia tăng hợp tác nhằm thúc đẩy tương tác giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh (chuyển đổi kép).
Những thách thức đang phải đối mặt
- Trong bối cảnh mới, kinh tế Việt Nam đứng trước những yêu cầu gì, thưa bà?
Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh: Sau những thành quả và khó khăn trong các năm 2022-2023, một trong những ưu tiên quan trọng trong các năm 2024-2026 là thúc đẩy đà phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Trong nền kinh tế, hoạt động xuất-nhập khẩu vẫn đối mặt với nhiều thách thức, do suy giảm nhu cầu ở các thị trường đối tác, gia tăng các tiêu chuẩn, hàng rào mới cùng với rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng, cạnh tranh xuất khẩu từ các nước châu Á… Ngành du lịch có nhiều điều kiện để phục hồi, song còn phụ thuộc vào nỗ lực đơn giản hóa yêu cầu và thủ tục cấp thị thực, lành mạnh hóa thị trường hàng không (trong nước và quốc tế) và việc cung ứng các sản phẩm mới (gắn với du lịch số, du lịch sinh thái và kinh tế ban đêm).
Và, giải ngân đầu tư công sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, tư duy chiến lược và các chương trình, sáng kiến thúc đẩy liên kết vùng sẽ tiếp tục được cụ thể hóa nhằm phát huy tác động lan tỏa của các dự án đầu tư công ở cấp độ vùng.
Các chính sách, cải cách kinh tế phải triển khai quyết liệt, chặt chẽ, thận trọng nhằm duy trì và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định hệ thống tài chính… (Ảnh: Vietnam+)
Trên bình diện đó, các chính sách, cải cách kinh tế phải triển khai quyết liệt, chặt chẽ, thận trọng nhằm duy trì và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định hệ thống tài chính… Năng lực phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô là một điều kiện tiên quyết, để có thể cảnh báo sớm các căng thẳng trên thị trường tiền tệ và rủi ro lây lan từ các biến động lớn của thị trường tiền tệ-tài chính quốc tế sẽ. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán (đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp), cơ cấu lại các tổ chức tín dụng phải nỗ lực đẩy nhanh cải cách căn bản gắn với phát triển và lành mạnh hóa.
Để làm được những điều này, yêu cầu hoàn thiện khung chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân sẽ trở nên cấp thiết hơn, nhằm tạo điều kiện cho khu vực này phục hồi mạnh mẽ, gia tăng sức chống chịu với các cú sốc kinh tế trong và ngoài nước đồng thời cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.
Việt Nam cũng cần rà soát, hoàn thiện khung chính sách gắn với các mô hình kinh tế mới (Kinh tế Xanh, kinh tế tuần hoàn, Kinh tế Số, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, Kinh tế biển Xanh) nhằm mở rộng không gian kinh tế và tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân. Lợi thế từ cơ cấu “dân số vàng” đang giảm dần nếu Việt Nam không có những giải pháp nhằm cải thiện năng suất lao động. Tuy nhiên, đây là cơ hội để Việt Nam đổi mới và phát triển hệ thống y tế, trong đó có các dịch vụ y tế thông qua nền tảng Số.
Việt Nam tiếp tục tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà trọng tâm là các FTA. Cách tiếp cận của Việt Nam đã được định hình rõ nét hơn, hướng tới thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện mức độ độc lập, tự chủ, năng lực nội tại và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đáng lưu ý, xu hướng biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, kéo dài liên tục và có dấu hiệu diễn biến nguy hiểm hơn so với giai đoạn trước. Dù đã đưa ra cam kết mạnh mẽ tại COP26 hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam vẫn phải xử lý một loạt các vấn đề chính sách liên quan đến xử lý quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu năng lượng hướng tới phát triển bền vững hơn, huy động nguồn lực tài chính để thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện Tăng trưởng Xanh, thực hiện hiệu quả cam kết liên quan đến thương mại và phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới…
Cải cách là “chìa khóa”
- Theo bà, cần phải làm gì để nâng cao nội lực nền kinh tế từ đó thúc đẩy tăng trưởng có chất lượng và bền vững?
Tiến sỹ Trần Thị Hồng Minh: Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần phải quyết liệt đổi mới tư duy để “làm mới” tiến trình cải cách. Để thực hiện yêu cầu ấy, Việt Nam phải có đánh giá thấu đáo, toàn diện hơn về nội lực của nền kinh tế. Nội lực ấy không chỉ giới hạn ở lượng tiền, vàng và các tài sản khác mà người dân Việt Nam đang nắm giữ. Thể chế chính là một nguồn lực và là “chìa khóa” quan trọng.
Tính toán của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy nếu xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách với mức trung bình của OECD về các rào cản thương mại và đầu tư, Việt Nam có thể tăng GDP bình quân đầu người thêm 1% sau một năm và 7,3% sau 10 năm tiến hành cải cách (so với kịch bản không cải cách).
Trong năm 2024, Việt Nam cần tập trung tiếp tục cải cách nền tảng kinh tế vi mô, song song với các biện pháp kinh tế vĩ mô và một số biện pháp khác.
Thứ nhất là rà soát, đánh giá kết quả thực hiện, đề ra các giải pháp cụ thể mới để triển khai các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài, Cách mạng Công nghiệp 4.0, phát triển vùng, và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn, tổ chức triển khai hiệu quả các luật căn bản của thể chế kinh tế thị trường, như: Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi); Luật Quản lý nợ công; Luật Đầu tư công (sửa đổi); Luật Cạnh tranh (sửa đổi); Luật An ninh mạng; Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), Luật Bảo vệ người tiêu dùng (sửa đổi)…
Thứ ba là tổ chức thực hiện Chiến lược quốc gia về Cách mạng Công nghiệp 4.0 đồng thời hoàn thiện khung chính sách và chuẩn bị các điều kiện cần thiết hướng đến hình thành một hệ sinh thái hiện đại cho đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi Số.
Thứ tư là hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng cơ hội từ các mô hình kinh tế mới. Đẩy nhanh việc nghiên cứu, ban hành các nghị định của Chính phủ về cơ chế thí điểm trong các lĩnh vực fintech, kinh tế tuần hoàn. Rà soát các quy định pháp lý liên quan đến các mô hình, hoạt động kinh tế ban đêm để sớm kiến nghị hướng tháo gỡ.
Thứ năm là hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách ở tầm quốc gia nhằm cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới. Đặc biệt cần chính thức hóa khu vực kinh tế phi chính thức và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới.
Thứ sáu là hoàn thiện khung chính sách, nâng cao năng lực thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó nhấn mạnh những nội dung về nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và các cơ quan Chính phủ, khai thác hiệu quả ưu đãi trong các FTA mới. Việt Nam cần tận dụng hiệu quả các điều khoản về Hợp tác và Nâng cao năng lực trong các FTA để nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, thích ứng với các yêu cầu phát triển bền vững và tiếp tục vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam.
- Xin cảm ơn bà!